Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

Môn Từ vựng học Tiếng Việt - câu hỏi ôn tập

Câu 01: Phân tích sự khác nhau giữa ngôn ngữ và lời nói.
Gợi ý:
- Về bản thể, ngôn ngữ là một hệ thống các đơn vị từ thấp đến cao (âm vị, hình
vị, từ và câu) và một hệ thống các quy tắc ngữ pháp.
- Lời nói là những phát ngôn cụ thể, do từng cá nhân cụ thể nói ra hoặc viết ra,
mang một nội dung tư tưởng, tình cảm cụ thể và có thể biểu thị những đặc
điểm tâm sinh lý của cá nhân người nói.
- Sự khác nhau giữa ngôn ngữ và lời nói thể hiện ở chỗ:
+ Ngôn ngữ là một thực thể trừu tượng, khái quát. Trái lại, lời nói là những
phát ngôn cụ thể, vật chất.  7
+ Ngôn ngữ là một hiện tượng mang bản chất xã hội, vì nó là sản phẩm của tập
thể, được tập thể người nói sáng tạo từ lâu đời. Trái lại lời nói là hiện tượng
mang tính chất cá nhân, vì nó là sản phẩm của từng cá nhân.
+ Ngôn ngữ là một hiện tượng có tính ổn định, bất biến. Trái lại, lời nói là hiện
tượng mang tính lâm thời.
+ Ngôn ngữ là một hệ thống các đơn vị hữu hạn, trái lại, lời nói là những phát
ngôn vô hạn.

Câu 02: Một số người đã nêu ra những bằng chứng để chứng minh rằng ngôn
ngữ là một hiện tượng tự nhiên (như đồng nhất ngôn ngữ với cơ thể sinh vật, với
bản năng sinh vật của con người, với những nét đặc trưng về chủng tộc và với
tiếng kêu của loài vật) có đúng không?
Gợi ý:
- Nếu nhìn bề ngoài, dường như ngôn ngữ có liên quan với các hiện tượng nói
trên, bởi vì, cũng như ngôn ngữ, các hiện tượng ấy đều gắn liền với con người
(cơ thể sinh vật, đặc trưng bản năng, đặc trưng chủng tộc) hoặc liên quan đến
ngôn ngữ âm thanh của con người (tiếng kêu của loài vật). Nhưng xét về bản
chất thì ngôn ngữ không có mối liên hệ gì với chúng.
- Cơ thể sinh vật (các loài thực vật, động vật) cũng có quá trình hình thành, tồn
tại, phát triển, hưng thịnh và mất đi tương tự như ngôn ngữ. Nhưng các cơ thể
sinh vật khi đã chết đi, là mất đi hoàn toàn, không để lại dấu vết gì trong các cơ
thể mới. Trong khi đó, các ngôn ngữ cổ (các từ ngữ) cho dù ngày nay không
được dùng nữa, nhưng nó còn để lại nhiều dấu vết trong các ngôn ngữ mới, nhất
là về cơ cấu ngữ âm, từ vựng (như tiếng Latin, tiếng Phạn…).
- Các đặc trưng bản năng sinh vật của con người (như đi, đứng, ăn uống, khóc,
cười…) cũng có một quá trình hình thành đồng thời với sự hình thành và phát
triển ngôn ngữ ở mỗi người. Nhưng các đặc trưng bản năng là những hiện tượng
có thể nảy sinh và tồn tại ngay cả ở trạng thái đơn lập (bên ngoài xã hội loài
người). Trong khi ngôn ngữ không nảy sinh và tồn tại ở trạng thái ấy. Ngôn ngữ
hình thành trong mỗi cá nhân chỉ ở trong cộng đồng xã hội, do sự tác động của
ngôn ngữ cộng đồng.
- Những nét đặc trưng chủng tộc (như màu da, màu tóc, màu mắt, kích thước
xương sọ,..) về hình thức dường như có liên quan với cộng đồng ngôn ngữ
(dường như mỗi chủng tộc đều nói các thứ tiếng giống nhau). Nhưng, về bản
chất, các đặc trưng chủng tộc luôn luôn mang tính di truyền. Trái lại, ngôn ngữ
không mang tính di truyền. Mặt khác, có những ngôn ngữ được nhiều chủng tộc  8
khác nhau cùng sử dụng; lại có những chủng tộc sử dụng nhiều ngôn ngữ khác
nhau.
- Tiếng kêu của loài vật hoàn toàn khác về chất so với tiếng nói của loài người.
Tiếng kêu của các loài vật là những âm thanh có tính chất bản năng, vô nghĩa
thuộc hệ thống tín hiệu thứ nhất; tiếng nói của loài người là một hệ thống âm
thanh có nghĩa, được hình thành một cách có ý thức, là sản phẩm của tư duy và
mang tính xã hội.

Câu 03: Chứng minh rằng ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, nó tồn tại và
phát triển theo quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý chí và nguyện vọng
cá nhân.
Gợi ý:
- Như được biết, ngôn ngữ do chính con người sáng tạo ra, nó nảy sinh, tồn tại
và phát triển luôn luôn phụ thuộc vào con người và xã hội loài người. Mọi biến
động trong xã hội dù lớn hay nhỏ đều tác động trực tiếp đến ngôn ngữ và làm
cho ngôn ngữ vận động, biến đổi (nhất là ở bộ phận từ vựng). Lấy tiếng Việt và
thực tiễn xã hội Việt Nam để chứng minh.
- Ngôn ngữ do con người sáng tạo ra là để làm phương tiện giao tiếp giữa các
thành viên trong xã hội. Vì thế ngôn ngữ là tài sản chung của cộng đồng, là một
hệ thống trừu tượng tồn tại tiềm tàng trong ký ức của các thành viên trong cộng
đồng.
- Ngôn ngữ không phải là hiện tượng tự nhiên. Ngôn ngữ khác về chất so với
các hiện tượng tự nhiên gắn liền hoặc liên quan đến con người như cơ thể sinh
vật, đặc trưng bản năng, đặc trưng chủng tộc, âm thanh của trẻ sơ sinh và âm
thanh các loài vật,…
- Sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ ở mỗi cá nhân là hoàn toàn mang
tính khách quan, chịu ảnh hưởng các quy luật của xã hội, và không phải là một
hiện tượng có tính chất bẩm sinh, bản năng.

Câu 04: Tại sao nói ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt?
Gợi ý:
Khi so sánh ngôn ngữ với các hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng
như pháp luật, văn học, chính trị, đạo đức…, ta thấy:
- Các hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng luôn luôn phụ thuộc vào
cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng sinh ra. Vì vậy các hiện tượng xã hội nói trên sẽ
bị mất đi hoặc bị thay thế khi cơ sở hạ tầng tương ứng bị mất đi hoặc bị thay thế.
Trái lại, ngôn ngữ không thuộc kiến trúc thượng tầng, cũng không thuộc cơ sở  9
hạ tầng, vì vậy, khi cơ sở hạ tầng sụp đổ, ngôn ngữ cũng không bị mất đi hoặc
thay thế ngôn ngữ này bằng ngôn ngữ khác. Thực tiễn lịch sử xã hội Việt Nam
và tiếng Việt là một minh chứng.
- Các hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng luôn luôn mang tính giai
cấp, luôn luôn phục vụ cho một giai cấp nhất định trong xã hội. Trái lại, ngôn
ngữ không mang tính giai cấp. Ngôn ngữ là tài sản chung của cộng đồng, của
mọi giai cấp trong xã hội. Ngôn ngữ là tiếng nói chung của mọi giai cấp, mọi
tầng lớp, mọi thành viên trong một cộng đồng.
- Cũng cần lưu ý rằng:
+ Mặc dù ngôn ngữ không mất đi hoặc không bị thay thế ngôn ngữ này bằng
ngôn ngữ khác khi cơ sở hạ tầng bị thay thế, nhưng trong nội bộ ngôn ngữ (nhất
là bộ phận từ vựng) vẫn luôn luôn diễn ra một quá trình vận động, biến đổi và
phát triển nhằm đáp ứng với nhu cầu giao tiếp của xã hội trong từng giai đoạn
lịch sử nhất định. Lấy lịch sử tiếng Việt để chứng minh.
+ Mặc dù ngôn ngữ không mang tính giai cấp vì ngôn ngữ là phương tiện giao
tiếp chung của toàn xã hội, nhưng mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp trong xã hội khi sử
dụng ngôn ngữ không tỏ ra “vô can” đối với nó, luôn luôn có ý thức thể hiện
quan điểm, lập trường giai cấp của mình; luôn luôn “lợi dụng” ngôn ngữ để
phục vụ cho mục đích cá nhân của mình. Lấy thực tiễn vận dụng tiếng Việt để
chứng minh.

Câu 05: Phân tích và chứng minh rằng ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp.
Gợi ý:
- Trước hết, ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu và chức năng cơ bản của các
tín hiệu là chức năng giao tiếp.
- Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ được thể hiện trước hết, ngôn ngữ là
phương tiện để con người truyền đạt những tư tưởng, tình cảm, ý chí, nguyện
vọng của mình đối với cộng đồng một cách nhanh nhất, chính xác nhất và trực
tiếp nhất.
- Ngôn ngữ còn là phương tiện để con người thiết lập và thể hiện một cách
chính xác các mối quan hệ giữa con người với con người.
- Ngôn ngữ còn là phương tiện để con người thực hiện chức năng quản lý xã
hội, điều hành và phát triển xã hội.
- Lấy thực tiễn vận dụng tiếng Việt để chứng minh.

Câu 06: Vì sao nói ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng và ưu việt
nhất của con người?  10
Gợi ý:
- Lênin đã định nghĩa rằng ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trong yếu nhất
của con người.
Trước hết, ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp. Bởi vì, ngôn ngữ là một hệ
thống tín hiệu được con người dùng để truyền đạt tư tưởng, tình cảm, ý chí,
nguyện vọng… của mình đến người khác. Ngôn ngữ còn là phương tiện để tạo
lập và thể hiện các mối quan hệ. Đồng thời, ngôn ngữ là phương tiện để tổ chức,
quản lý xã hội, phát triển xã hội.
- Nếu so sánh ngôn ngữ với các phương tiện giao tiếp bổ sung khác như: động
tác, cử chỉ, công thức, ký hiệu, biểu đồ, các môn nghệ thuật đơn lập (âm nhạc,
hội họa, điêu khắc, múa)… thì ta thấy ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp đặc
biệt, vì:
a. Nội dung biểu đạt của các phương tiện giao tiếp bổ sung nói chung là nghèo
nàn, ít ỏi, đơn nghĩa. Trái lại, nội dung biểu đạt của phương tiện giao tiếp ngôn
ngữ hết sức phong phú và sâu sắc. Bởi vì, mối quan hệ giữa hai mặt trong các
phương tiện giao tiếp bổ sung là quan hệ 1/1. Trong khi đó, mối quan hệ giữa
hai mặt trong phương tiện giao tiếp ngôn ngữ là quan hệ 1/n và n/1, vì vậy, ngôn
ngữ luôn luôn tồn tại các hiện tượng đa nghĩa, đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng
âm…
b. Nội dung của các phương tiện giao tiếp bổ sung nói chung là khó hiểu,
không quen thuộc đối với tất cả mọi thành viên trong cộng đồng. trái lại, ý nghĩa
của các đơn vị ngôn ngữ rất quen thuộc và dễ hiểu đối với mọi người, đối với
mọi lứa tuổi, thành phần, tầng lớp trong xã hội.
c. Ngoại trừ các môn nghệ thuật đơn lập, các phương tiện giao tiếp bổ sung
khác không có khả năng biểu thị cảm xúc. Trái lại, ngôn ngữ luôn luôn có khả
năng biểu thị mọi cảm xúc, trạng thái tâm lý tinh tế và sâu kín nhất của con
người. Có thể nói, ngôn ngữ không bao giờ chịu “bó tay” trước bất kì một nhu
cầu biểu đạt nào của con người.
Lấy các dẫn chứng để phân tích, minh họa cho các luận điểm “a,b,c”.


Câu 07: Phân tích chức năng tư duy của ngôn ngữ.
 Gợi ý:
a) Trước hết phải giải thích rõ khái niệm tư duy:
- Tư duy biểu thị quá trình nhận thức (quá trình hình thành ý tưởng).
- Tư duy còn thể hiện kết quả của nhận thức (biểu thị ý tưởng đã hình thành)
 b) Vai trò của ngôn ngữ đối với tư duy:  11
 - Dù tư duy được hiểu theo nghĩa nào thì ngôn ngữ vẫn luôn luôn là “vỏ vật
chất” để diễn đạt tư duy, để tham gia vào quá trình hình thành ý tưởng, đồng
thời để định hình các ý tưởng.
 - Nhờ ngôn ngữ mà các ý tưởng của tư duy trở nên rõ ràng hơn. Nếu không có
ngôn ngữ thì các ý tưởng cũng chỉ như là “những đám mây ngũ sắc”.

Câu 08: Giải thích và chứng minh câu nói của Mác:“Ngôn ngữ là hiện thực
trực tiếp của tư tưởng”?
Gợi ý:
Câu nói này khẳng định vai trò và mối quan hệ của ngôn ngữ đối với tư duy.
- Về vai trò của ngôn ngữ: ngôn ngữ như là mặt hình thức, là cái “vỏ vật chất”
của tư duy. Nó vừa là phương tiện ghi lại sản phẩm, kết quả của quá trình tư
duy, vừa tạo điều kiện cho tư duy phát triển. Nói cách khác, dù tư duy được theo
nghĩa nào thì ngôn ngữ luôn luôn là phương tiện vừa tham gia vào quá trình hình
thành ý tưởng, vừa định hình các ý tưởng đã hình thành.
- Về quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy: Đó là mối quan hệ có tính biện chứng,
thống nhất và hữu cơ. Quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy được ví như hai mặt của
một tờ giấy, không thể cắt bỏ mặt này mà không đồng thời cắt bỏ cả mặt bên
kia. Ở đâu có ngôn ngữ thì ở đó có tư duy, và ngược lại, ở đâu có tư duy thì ở đó
phải có ngôn ngữ để diễn đạt. Ngôn ngữ và tư duy là hai đối tượng tồn tại khách
quan, chúng thống nhất nhưng không đồng nhất và chúng khác nhau nhưng
không tách rời. Các đơn vị của tư duy được diễn đạt bởi các đơn vị của ngôn
ngữ (lấy ví dụ để phân tích và minh họa).

Câu 09: Trình bày nội dung một số giả thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ.
Gợi ý:
- Các giả thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ (thuyết tượng thanh, thuyết cảm
thán, thuyết tiếng kêu trong lao động, thuyết ngôn ngữ cử chỉ và thuyết khế ước
xã hội) là những giả thuyết thể hiện quan điểm của các nhà duy vật siêu hình:
lấy cái hiện tượng quy thành cái bản chất, lấy cái cá biệt quy thành cái phổ biến,
phi lý và mâu thuẫn.
- Thuyết tượng thanh cho rằng ngôn ngữ ra đời là do con người dùng cơ quan
phát âm của mình để mô phỏng những âm thanh của tự nhiên như tiếng chim
kêu, tiếng gió thổi, tiếng nước chảy…, hoặc dùng đặc điểm của tư thế bộ máy
phát âm để mô phỏng đặc điểm của sự vật khách quan. Cơ sở của giả thuyết trên
là ở sự tồn tại của các từ tượng thanh và từ mô phỏng trong các ngôn ngữ (lấy ví
dụ để minh họa, phân tích).  12
- Thuyết cảm thán cho rằng ngôn ngữ loài người bắt nguồn từ những âm thanh
để biểu thị cảm xúc như mừng, giận, vui, buồn, đau đớn… Cơ sở của giả thuyết
này là sự tồn tại trong các ngôn ngữ những thán từ và những từ phát sinh thán từ
(lấy ví dụ để minh họa, phân tích).
- Thuyết tiếng kêu trong lao động cho rằng ngôn ngữ xuất hiện từ những tiếng
kêu trong lao động tập thể theo nhịp lao động. Những âm thanh này về sau trở
thành tên gọi của động tác lao động. Cơ sở của giả thuyết này là ở sự tồn tại của
một số từ được dùng để thống nhất hành động chung trong các ngôn ngữ (lấy ví
dụ minh họa).
- Thuyết khế ước xã hội cho rằng, ngôn ngữ ra đời là do con người thỏa thuận
với nhau mà quy định ra (lấy ví dụ minh họa).
- Thuyết ngôn ngữ cử chỉ cho rằng ban đầu con người chưa có ngôn ngữ thành
tiếng. Để giao tiếp với nhau, người ta dùng tư thế một số bộ phận của thân thể
như đầu, lưng và tay để truyền đạt thông tin (lấy ví dụ minh họa).

Câu 10: Trình bày quan điểm của Ăng ghen về nguồn gốc của ngôn ngữ.
Gợi ý:
- Khác với các nhà duy vật siêu hình, các nhà duy vật biện chứng đã dựa vào
những thành tựu của các khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội nhân văn
để phân tích và chứng minh quá trình hình thành ngôn ngữ thành tiếng ở con
người. Một trong những đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
chứng minh một cách duy nhất đúng sự hình thành ngôn ngữ ở con người là
Ph. Ăng ghen với luận văn khoa học “Tác dụng của lao động trong quá trình
chuyển biến từ vượn thành người”.
- Trong tác phẩm “Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn
thành người”, khi phân tích quá trình tiến hóa tự nhiên để trở thành con người
trên trái đất, Ăng ghen đồng thời đã phân tích và lý giải một cách khoa học điều
kiện tự nhiên và điều kiện xã hội cho sự hình thành ngôn ngữ âm thanh ở con
người.
- Về điều kiện tự nhiên, Ăng ghen đã chỉ rõ bước quyết định trong quá trình
chuyển biến từ vượn thành người là sự kiện chuyển từ dáng đi khom sang dáng
đi thằng đứng cùng với đôi tay được giải phóng. Nhờ có dáng đi thẳng đứng mà
khí quản của bộ máy phát âm được hình thành và hoàn thiện dần. Nhờ có đôi tay
được giải phóng, con người có thể tạo ra công cụ lao động, điều mà bất cứ một
loài vượn nào cũng không thể làm được. Nhờ công cụ lao động mà lao động của
con người trở nên có sáng tạo, khác hẳn với lao động bản năng của loài vật. Nhờ
lao động mà bộ óc con người được hình thành và phát triền, tư duy trừu tượng ra  13
đời. “Dần dần với sự phát triển của bàn tay và với quá trình lao động, con người
bắt đầu thống trị giới tự nhiên và sự thống trị đó, cứ mỗi lần tiến lên một bước
và nó mở rộng thêm tầm mắt của con người” [3,60]. Như vậy, theo Ăng ghen, sự
phát triển của lao động đã đưa đến kết quả tất yếu là thắt chặt thêm những mối
quan hệ giữa các thành viên của xã hội, bằng cách tạo ra rất nhiều trường hợp để
con người giúp đỡ lẫn nhau, hợp tác với nhau và làm cho mỗi cá nhân ngày càng
có ý thức rõ rệt đối với lợi ích của sự hợp tác ấy. Tóm lại, những con người đang
được hình thành đó đạt đến mức độ với nhau là họ có những điều kiện cần phải
nói mới được. Như vậy, ngôn ngữ chỉ sinh ra do nhu cầu, do sự cần thiết phải
giao tiếp. Nhưng nhu cầu giao tiếp ấy của con người cũng lại do lao động quyết
định.

Câu 11: Hãy phân tích và chứng minh: sự phát triển không đồng đều giữa các
mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của ngôn ngữ?
Gợi ý:
- Trong ba bộ phận tạo thành một ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) thì
bộ phận từ vựng biến đổi và phát triển nhanh nhất và nhiều nhất, sau đó bộ phận
ngữ âm và cuối cùng là bộ phận ngữ pháp.
- Bộ phận từ vựng biến đổi nhanh nhất và nhiều nhất vì từ vựng trực tiếp phản
ánh đời sống xã hội. Mọi biến đổi trong xã hội đều được ngôn ngữ trực tiếp
phản ánh. Cũng cần phân biệt từ vựng nói chung và từ vựng cơ bản. Từ vựng
nói chung biến đổi không ngừng, ngày càng phong phú. Những từ gốc, từ vựng
cơ bản ổn định, có tính bất biến.
- Bộ phận ngữ âm của ngôn ngữ biến đổi chậm và không đều vì nếu biến đổi
nhanh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc giao tiếp bằng ngôn ngữ. Tuy nhiên, ngữ
âm biến đổi dẫn đến tồn tại các cách phát âm địa phương.
- Bộ phận ngữ pháp biến đổi chậm nhất, vì cùng với bộ phận từ vựng cơ bản,
ngữ pháp là cơ sở của ngôn ngữ. Sự biến đổi nhanh của quy tắc ngữ pháp sẽ dẫn
đến khó khăn trong việc giao tiếp. Tuy nhiên, trong thời gian dài, hệ thống ngữ
pháp cũng có biến đổi, cải tiến, bổ sung thêm các quy tắc mới.

Câu 12: Tóm tắt quá trình phát triển của tiếng Việt qua các thời kỳ: thời kỳ
phong kiến, thời kỳ thuộc Pháp và từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay.
Gợi ý:
- Tiếng Việt thời phong kiến: Do tiếng Việt và tiếng Hán gần nhau về mặt loại
hình, nghĩa là cả hai đều thuộc loại ngôn ngữ đơn lập – âm tiết tính, nên tiếng
Việt đã vay mượn rất nhiều từ ngữ tiếng Hán theo chiều hướng chủ đạo là Việt  14
hóa trước hết về mặt âm đọc, sau đó về mặt ý nghĩa và phạm vi sử dụng. Có một
số từ Hán vào tiếng Việt qua con đường khẩu ngữ ở một thời điểm xa xưa, dưới
các vỏ ngữ âm cổ và dần dần đã hòa đồng vào vốn từ vựng tiếng Việt khiến
người ta khó nhận ra đó là từ Việt gốc Hán như: đầu, gan, ghế, cưới…
Từ thế kỷ XI về sau, Nho học dần dần được đề cao và giữ vị trí độc tôn. Một
nền văn chương chữ Hán mang sắc thái Việt Nam hình thành và phát triển. Nhờ
vậy, con đường Việt hóa văn tự Hán được đẩy mạnh và tiếng Việt ngày càng
thêm phong phú, đa dạng, tinh tế, uyển chuyển.
Chữ Nôm ra đời bằng cách vay mượn một số yếu tố văn tự Hán (hoặc từng bộ
phận chữ, hoặc cả chữ trọn vẹn) để ghi lại tiếng Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết.
Chữ Nôm góp phần phản ánh diện mạo hệ thống ngôn ngữ văn học của tiếng
Việt lúc bấy giờ (qua những bài phú Nôm thời Trần, thơ Nôm và truyện Nôm
thời Lê, Nguyễn…).
- Tiếng Việt thời thuộc Pháp: Thời kỳ này, chữ quốc ngữ trở nên thông dụng
cùng với sự ảnh hưởng của ngôn ngữ - văn hóa Pháp, làm cho tiếng Việt được
phát triển thêm một bước. Báo chí, sách vở tiếng Việt (chữ quốc ngữ) ra đời
ngày càng nhiều. Nhiều từ ngữ, thuật ngữ mới được sử dụng, tuy chủ yếu vẫn là
từ Hán Việt. Nhiều hoạt động văn chương, báo chí sôi nổi cùng với sự hình
thành nhiều thể loại mới làm cho tiếng Việt ngày càng thêm phong phú, tinh tế,
đa dạng.
- Tiếng Việt từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay: Với bản “Tuyên ngôn độc
lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trước đồng bào cả nước và nhân dân toàn thế
giới vào ngày 2.9.1945, tiếng Việt thực sự đã giành lại địa vị độc tôn.
Chức năng xã hội của tiếng Việt ngày càng được mở rộng, được sử dụng trong
các lĩnh vực giao tiếp khác nhau của xã hội (từ sáng tác văn học đến giao soạn
thảo công văn hành chính; từ lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giáo dục đến giao
tiếp thông tin đại chúng…).
Tiếng Việt còn có vai trò là ngôn ngữ quốc gia, dùng chung cho cả khối cộng
đồng nhiều dân tộc trên đất nước Việt Nam.


Câu 13: Tại sao nói ngôn ngữ là một hệ thống cấu trúc?
Gợi ý:
- Cũng như mọi đối tượng trong hiện thực, ngôn ngữ là một thực thể bao gồm
các yếu tố, các bộ phận bên trong và các mối quan hệ giữa các yếu tố, các bộ
phận ấy. Chỉ có điều các đối tượng trong hiện thực là các đối tượng vật chất, cụ  15
thể; trái lại, ngôn ngữ là một thực thể trừu tượng khái quát, là sản phẩm của
nhận thức, được trừu tượng hóa khỏi các đối tượng vật chất, cụ thể (lời nói).
- Các yếu tố trong hệ thống – cấu trúc ngôn ngữ chính là các loại đơn vị cơ bản
của ngôn ngữ (âm vị, hình vị, từ và câu). Bên cạnh các loại đơn vị cơ bản là một
tập hợp gồm nhiều đơn vị đồng loại (cùng cấp độ, cùng chức năng) tạo thành
một hệ thống. Chẳng hạn: hệ thống âm vị, hệ thống hình vị, hệ thống từ vựng, hệ
thống cú pháp. Các đơn vị trong cùng một hệ thống tạo thành một cấp độ (bậc),
chẳng hạn: cấp độ ngữ âm, cấp độ từ vựng, cấp độ cú pháp…
Các đơn vị trong cùng một cấp độ hoặc giữa các cấp độ luôn luôn nằm trong
các mối quan hệ chằng chịt, ràng buộc, chi phối lẫn nhau. Trong hệ thống cấu
trúc ngôn ngữ vừa tồn tại các quan hệ chung nhất, bao trùm như quan hệ liên
tưởng, quan hệ ngữ đoạn, quan hệ tôn ti; vừa tồn tại các quan hệ riêng, đặc thù
như quan hệ ngữ pháp (quan hệ đẳng lập, quan hệ chính phụ, quan hệ chủ vị),
quan hệ ngữ nghĩa (quan hệ đồng nghĩa, quan hệ đa nghĩa, quan hệ trái
nghĩa…)…
Học viên lấy ví dụ tiếng Việt để phân tích và chứng minh.

Câu 14: Phân tích các đơn vị đồng loại và khác loại trong hệ thống – cấu trúc
của ngôn ngữ.
Gợi ý:
a) Các đơn vị đồng loại là những đơn vị giống nhau về cấp độ và chức năng.
Chẳng hạn, các âm vị đều cùng cấp độ ngữ âm và đều có cùng chức năng phân
biệt nghĩa, cấu tạo hình vị, các hình vị đều cùng cấp độ hình thái và cùng chức
năng biểu thị ý nghĩa và cấu tạo từ, các từ đều cùng cấp độ từ vựng và cùng
chức năng định danh, biểu thị khái niệm và cấu tạo câu, các câu đều cùng cấp độ
cú pháp và cùng chức năng thông báo, cấu tạo đoạn.
b) Các đơn vị khác loại là những đơn vị khác nhau về cấp độ và chức năng. Đó
là các loại đơn vị từ thấp đến cao: âm vị, hình vị, từ và câu.
Học viên lấy ví dụ tiếng Việt để phân tích và chứng minh.

 Câu 15. Phân tích nội dung, vai trò và tác dụng của hai quan hệ - quan hệ
ngữ đoạn và quan hệ liên tưởng trong hệ thống cấu trúc của ngôn ngữ.
Gợi ý:
a) Về quan hệ liên tưởng
- Quan hệ liên tưởng là mối quan hệ giữa các đơn vị đồng loại, tồn tại tiềm
tàng trong kí ức của người nói và có thể thay thế cho nhau ở cùng một vị trí
trong chuỗi lời nói.  16
- Quan hệ liên tưởng liên quan trực tiếp đến vốn ngôn ngữ của người nói, là
tiền đề, cơ sở cho thao tác lựa chọn của tư duy.
- Quan hệ liên tưởng có tác dụng giúp người nói tạo lập được những lời nói
sinh động, gợi cảm, chính xác, giàu hình ảnh và hàm súc về ý nghĩa.
- Học viên cần nêu ra các dẫn chứng để phân tích và chứng minh.
b) Về quan hệ ngữ đoạn
- Quan hệ ngữ đoạn là mối quan hệ giữa các đơn vị cùng tồn tại hiện thực trên
lời nói, được sắp xếp theo một trật tự nhất định, phù hợp với các quy tắc về lô
gích, ngữ pháp và ngữ nghĩa của ngôn ngữ.
- Quan hệ ngữ đoạn liên quan trực tiếp đến năng lực ngôn ngữ của người nói,
là tiền đề, cơ sở cho thao tác kết hợp của tư duy.
- Quan hệ liên tưởng có tác dụng giúp người nói tạo lập được những lời nói rõ
ràng, lô gích và dễ hiểu.
- Học viên cần nêu ra các dẫn chứng để phân tích và chứng minh.

 Câu 16: Hãy phân tích và chứng minh ngôn ngữ mang bản chất tín hiệu?
Gợi ý:
Cũng như mọi tín hiệu thông thường trong cuộc sống quanh ta, ngôn ngữ cũng
mang những đặc điểm cơ bản của tín hiệu như sau:
- Ngôn ngữ cũng có hai mặt – mặt biểu đạt và mặt được biểu đạt (còn gọi là
cái biểu đạt và cái được biểu đạt). Mặt biểu đạt là vỏ vật chất âm thanh, mặt
được biểu đạt là nội dung sự vật, hiện tượng. Hai mặt này luôn tồn tại trong mối
quan hệ thống nhất.
- Ngôn ngữ cũng mang tính vật chất, vì có tính vật chất thì con người mới tiếp
nhận trực tiếp bằng giác quan của mình. Mặc dù ngôn ngữ là một thực tế trừu
tượng, khái quát, nhưng ngôn ngữ phải tồn tại trong một đối tượng cụ thể vật
chất là lời nói thì chúng ta mới nhận biết được ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ cũng mang tính hệ thống. Mỗi tín hiệu ngôn ngữ chỉ có giá trị nhất
định khi nằm trong cùng một hệ thống ngôn ngữ nào đó.
- Ngôn ngữ bao giờ cũng mang tính khái quát. Chẳng hạn, mỗi từ của ngôn
ngữ không biểu thị một đối tượng vật chất cụ thể nào trong hiện thực mà biểu thị
một lớp sự vật có những đặc điểm chung nào đó.
Học viên lấy ví dụ tiếng Việt để phân tích.

Câu 17: Tại sao nói ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt?
Gợi ý:
Tính chất đặc biệt của hệ thống ngôn ngữ thể hiện ở các đặc trưng sau:  17
- Tính võ đoán. Đối với các tín hiện thông thường, mối quan hệ giữa hình thức
vật chất và nội dung thông tin mang tính quy ước. Tín hiệu ngôn ngữ cũng có
nguồn gốc quy ước, nhưng vì quá lâu đời nên mang tính võ đoán. Tính võ đoán
của tín hiệu ngôn ngữ thể hiện ở chỗ mối quan hệ giữa CBĐ và CĐBĐ là không
có lý do, không giải thích được.
- Tính hình tuyến. Các tín hiệu ngôn ngữ khi hoạt động giao tiếp không bao giờ
xuất hiện tại một thời điểm hoặc một vị trí từ hai tín hiệu trở lên mà xuất hiện
kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định. Nhờ tính hình tuyến mà người ta có thể
phân tích và nhận diện được các quy tắc kết hợp với các yếu tố để tạo thành các
đơn vị ngôn ngữ khác nhau.
- Tính phức tạp, nhiều tầng bậc. Trước hết, hệ thống tín hiệu ngôn ngữ bao
gồm một số lượng đơn vị rất lớn, khó có thể thống kê hết số lượng từ, câu trong
một ngôn ngữ. Mặt khác, bên cạnh các tín hiệu ngôn ngữ đồng loại còn tồn tại
các tín hiệu ngôn ngữ khác loại, đó là các đơn vị của ngôn ngữ thuộc nhiều cấp
độ khác nhau có quan hệ cấp bậc (tức là các đơn vị bậc thấp nằm trong các đơn
vị bậc cao hơn, các đơn vị bậc cao, bao hàm các đơn vị bậc thấp hơn). Do vậy,
hệ thống tín hiệu ngôn ngữ là một hệ thống của nhiều hệ thống (hệ thống âm vị,
hệ thống hình vị, hệ thống từ vựng, hệ thống câu).
- Tính đa trị. Trong hệ thống tín hiệu ngôn ngữ, mối quan hệ giữa CBĐ và
CĐBĐ không phải bao giờ cũng tương ứng 1/1; mà cùng một CBĐ có thể tương
ứng với nhiều CĐBĐ như hiện tượng đồng âm, đa nghĩa, hoặc cùng một CĐBĐ
có thể tương ứng với nhiều CBĐ như hiện tượng đồng nghĩa… Đồng thời, ngoài
chức năng truyền tin, tín hiệu ngôn ngữ còn có nhiều chức năng như biểu thị
khái niệm, biểu cảm…
- Tính năng sản. Các tín hiệu ngôn ngữ luôn luôn tiềm tàng khả năng sản sinh
các tín hiệu mới từ những tín hiệu ban đầu.
Học viên tự lấy dẫn chứng để phân tích, minh họa.


Câu 18: Phân tích sự khác nhau giữa phương pháp so sánh – lịch sử và
phương pháp so sánh – loại hình?
Gợi ý: Sự khác nhau giữa hai phương pháp này thể hiện ở các mặt sau đây:
- Nếu phương pháp so sánh – lịch sử hướng vào sự so sánh các ngôn ngữ trong
lịch sử phát triển của nó thì phương pháp so sánh – loại hình lại hướng vào tình
trạng hiện có của ngôn ngữ.
- Nếu nội dung của phương pháp so sánh – lịch sử là so sánh các từ, các dạng
thức của từ tương tự nhau về ý nghĩa và âm thanh trong các ngôn ngữ khác  18
nhau dựa vào tư liệu ngôn ngữ sống cũng như những tài liệu được ghi trên văn
bia và thư tịch cổ thì nội dung của phương pháp so sánh – loại hình là so sánh
đồng đại giữa các ngôn ngữ về kết cấu (có thể về mặt ngữ âm, từ vựng, hình
thái, cú pháp hoặc ngữ nghĩa) của chúng để tìm ra những điểm giống nhau và
khác nhau giữa chúng. Từ những điểm giống nhau, người ta rút ra các phổ niệm,
tập hợp một số phổ niệm cho ta một loại hình ngôn ngữ.
- Nếu kết quả của phương pháp so sánh – lịch sử là xác định nguồn gốc lịch sử
các ngôn ngữ (hình thành các ngữ hệ (họ), các dòng, các nhánh ngôn ngữ…) thì
kết quả của phương pháp so sánh – loại hình là khái quát thành các phổ niệm và
các loại hình ngôn ngữ.
Học viên tự lấy dẫn chứng để phân tích, minh họa.

Câu 19: Vị trí của tiếng Việt trong kết quả phân loại các ngôn ngữ theo nguồn
gốc và theo loại hình? Tóm tắt giả thuyết về nguồn gốc của tiếng Việt?
Gợi ý:
- Khi phân loại các ngôn ngữ về nguồn gốc, tiếng Việt thuộc họ Môn – Khmer,
gần gũi với các ngôn ngữ Mường, Khmer, Bana, Ktu.
- Khi phân loại các ngôn ngữ về loại hình, tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ
đơn lập, gần gũi với các ngôn ngữ Hán, Thái, Mường, Khmer.
- Giả thuyết có nhiều sức thuyết phục về nguồn gốc của tiếng Việt: tiếng Việt
bắt nguồn từ một ngữ hệ lớn sinh thành trong khung cảnh Đông Nam Á thời tiền
sử (gọi là ngữ hệ Nam Á) từ bờ sông Dương Tử (Trung Quốc) cho tới vùng
Atsam (Mianma), bao gồm cả Thái, Lào, Việt Nam, Campuchia… và lan tỏa tới
các bán đảo, đảo phía Nam giáp Châu Đại Dương. Về sau, ngữ hệ này phân chia
thành nhiều dòng, trong đó có dòng Môn – Khmer phân bổ ở vùng Nam Đông
Dương và vùng phụ cận vùng núi Bắc Đông Dương. Tiếng Việt từ chỗ là một
ngôn ngữ thuộc dòng Môn – Khmer (gọi là ngôn ngữ tiền Việt – Mường), đã
chuyển thành tiếng Việt Mường chung (hoặc tiếng Việt cổ) và cuối cùng tách
thành tiếng Việt và tiếng Mường.

Câu 20: Phân tích các khái niệm ý nghĩa tường minh, ý nghĩa hàm ẩn, tiền giả
định, hàm ngôn.
Gợi ý:
- Ý nghĩa tường minh là phần ý nghĩa của câu nói được bộc lộ một cách trực
tiếp do các yếu tố ngôn ngữ đem lại.
- Ý nghĩa hàm ẩn là phần ý nghĩa không bộc lộ trực tiếp do các yếu tố ngôn
ngữ đem lại mà nhờ suy ý mới nắm bắt được.  19
- Tiền giả định là những căn cứ cần thiết để người nói tạo ra ý nghĩa tường
minh trong câu nói của mình.
- Hàm ngôn là những nội dung có thể suy ra từ một câu nói cụ thể nào đấy từ ý
nghĩa tường minh và tiền giả định.
Học viên tự tìm dẫn chứng để phân tích và chứng minh.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đỗ Hữu Châu, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987.
2. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Cơ sở ngôn ngữ học
và tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1992.
3. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết, Dẫn luận
ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995.
4. Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt – sơ thảo ngữ pháp chức năng – Quyển I, Nxb
KHXH, Hà Nội, 1991.
5. Hoàng Tất Thắng, Giáo trình Cơ sở ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
2003.
6. Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1989.
7. N. V. Xtankêvich, Loại hình ngôn ngữ, Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội, 1982.
8. Lê A, Đỗ Xuân Thảo, Giáo trình tiếng Việt 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.

Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

CON PHẢI NHỚ!!!

Có những thứ không thể mua lại
đó là tình yêu
giữa người với người
Có những thứ không thể quay lại
là năm tháng thanh xuân...đã qua đi...
Con phải nhớ!

Cha và con gái và tình yêu


Con yêu của Cha!

Thế là hơn 2 năm rồi, con xa nhà để đi học, Cha chưa có dịp để ngồi lại tâm sự với con, tâm sự như một người anh với đứa em gái.

Cha muốn con đọc thư của Cha với một chút nhớ nhung. Cha lợi dụng sự nhớ nhung đó như một cửa sổ mở vào hồn con. Hôm nay Cha muốn nói với con những điều nghiêm trọng khác thường, khác với sự nô đùa, dí dỏm thân mật hàng ngày của Cha.

Đáng lẽ, Cha nên nhường Mẹ con nói với con những điều Cha sắp nói. Nhưng nội dung bức thư này chứa đựng cái nhìn của phái nam đối với phái nữ. Điều này Cha nghĩ Cha sành hơn Mẹ đúng không? ( Mẹ thì không thích nói nhiều...)

Con đã 20 tuổi rồi, con biết là con còn con nít nhưng chưa hẳn là người lớn. Con đặt chân vào khung cảnh Cha muốn giúp con ít nhiều, đó là ý tưởng mới mà mọi người cha đều muốn nói với con gái mình. Nhưng do một điều trở ngại nào đó nên lần lữa để rồi cuối cùng không bao giờ nói được.

20 tuổi ấy là lúc con nên nghe ít nhiều sự thật mà từ xưa tới nay Cha chưa hề nói với con. Có thể con nhìn thấy sự thực trong cuốn tiểu thuyết nào đó và có tính chất thơ mộng lãng mạn...? Nhưng tốt hơn hết Cha nên nói những điều mà nghĩa vụ làm cha nhất định phải nói. Con nên có bạn trai trong lúc này là điều bình thường, con không thể khước từ điều ấy, huống hồ người chồng tương lai của con sau này theo quan niệm bây giờ khó có thể nằm ngoài số bạn trai của con.

Có bạn trai không có nghĩa là buông tuồng với họ, có những câu đùa của họ con phải nên tiếp với vẻ mặt lạnh nhạt để kẻ đối thoại biết rằng phải tôn trọng phẩm giá của người con gái. Nhưng không phải vì vậy mà con trình diện với một bộ mặt đăm đăm, một bộ mặt "kín cổng cao tường" làm tắt hết mọi nguồn cảm hứng, làm xa cách tất cả các bạn trai của con và đồng thời cái may mắn tình duyên tốt đẹp.

Một giáo nữ nào đó đã nói rằng "người con gái là một bông hồng". Đúng đấy con ạ! Nhưng hãy là các que đâm vào bàn tay tàn bạo. Một buổi đẹp trời nào đó con sẽ nhận được một bức thư tỏ tình hay đại loại tin nhắn qua điện thoại di dộng của con. Điều đó không phải là trọng tội mà con phải giấu Cha Mẹ, trái lại Cha Mẹ mong muốn và ước ao, mong con thông báo cái hân hạnh ấy với Cha mẹ và quả là buồn cho một người thiếu nữ nào không có con trai để ý thương yêu.

Con có quyền yêu hoặc không nhận lời tỏ tình nhưng quyền tỏ tình thuộc về phái nam. Con nghe rõ: không bao giờ giành lấy quyền ấy của họ nhưng cũng không bao giờ báo cáo sự kiện xảy ra ấy với mọi người. Dù điều đó làm con thỏa mãn lắm... Con thử nghĩ mà xem, lan truyền cho mọi người biết chàng trai vừa bị khước từ tình yêu thì còn gì là thể diện cho "nạn nhân". Và con gái của Cha cũng không thiếu tính giáo dục để đến nỗi gửi thư về người chủ của nó - "Luật" tình yêu cũng đòi hỏi phải lịch sự, tế nhị hơn mọi trò chơi thanh nhã khác con ạ.

Nếu con không chê Cha Mẹ có một chút kinh nghiệm thì không là người đi xe lửa bị đặt hướng đi cố định. Con đừng lo lắng những kinh nghiệm của Cha Mẹ có thể đi trái vì như thế nó sẽ bóp nghẹt tình cảm mới mẻ vừa mới chớm nở. Cha muốn con rõ những yếu tố sẽ giúp con trong việc lựa chọn họ, quyền quyết định phải thuộc về con. Khi con trưởng thành có nghĩa là vài ba năm nữa con có thể kết hôn với một người con trai nhà nghèo chẳng hạn, nhưng Ba muốn nói với con rằng "tình yêu đích thực là tình yêu không vụ lợi và đừng để vật chất lấn át tình yêu chân thực"

Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến - con hãy nhớ rõ câu này của Cha và Cha Mẹ sẽ không thể cho con lời khuyên cố định, có giá trị trong mọi trường hợp như một thứ "cẩm nang" hay rập khuôn được; nhưng dòng đời Cha Mẹ cũng đã trải qua khá nhiều, có thể nào không chia sẽ những điều mình biết cho con. Người mà Cha Mẹ rất mực yêu thương. Nhân danh tình yêu đó Cha Mẹ mong con thành đạt tuyệt đối dù cho con có phạm tội gì với Cha Mẹ thì Cha Mẹ cũng sẵn sàng tha thứ.

Con yêu!

Con nên tham gia các buổi họp tập thể với điều kiện nó không phải là môi trường cho những vụ vụng trộm thiếu đẹp đẽ; có thể một chàng trai mời con một bữa cơm thân mật, con nhận lời mời với một điều kiện anh ta tỏ ra có giáo dục và quen biết với con khá lâu. Tốt hơn hết con ạ, con nên cáo biệt chàng trai sau bữa ăn, con nên giữ bình tĩnh cho lý trí. Cha biết con phải can đảm lắm mới về sớm như vậy. Nhưng tất cả nghệ thuật gây tình cảm của người con gái là không bao giờ cho chiêm ngưỡng, cho thưởng trọn niềm chiến thắng...

Con cũng đừng bao giờ đặt mình vào thế yếu, con phải biết tình yêu dù sao cũng là thành sự tranh chấp, kẻ yếu thì ngã trước. Không yêu sao được khi con đến phòng một chàng trai có đèn mờ ảo, có nhạc ru êm, có lời êm mật ngọt, có những cử chỉ yêu thương... cũng vì vậy con nên tránh những khung cảnh đặt con vào sự yếu mềm. Một khúc sông vắng, một đoạn đường khuya, một công viên vắng người. Bắt sao được khi kẻ thắng bao giờ cũng là kẻ mạnh.

Cha tin rằng con không cổ hũ đến độ từ chối một bó hoa tươi mà chàng đã tặng con. Nhận đi con, đặt nó dưới chân tượng đài tình ái. Tình yêu không phải là tội lỗi, nhưng con gái của Cha phải khước từ những tặng phẩm được đánh giá là ẩn nấp một sự mua chuộc. Kẻ không muốn bạn phải khước từ giá mua dù giá đó có cao đến bao nhiêu.

Nhưng nếu con chưa có ý định kết ước lâu dài thì con hãy từ chối ngay món quà ẩn chứa một vật ước. Một chiếc nhẫn cưới, một món nữ trang. Cha đố con biết khi đôi trai gái đoạn tuyệt nhau thì điều đầu tiên họ làm gì? Họ đòi nhau thư từ và hình ảnh con ạ! Buồn cười nhỉ, khi thắm thiết cho nhau những lời yêu thương nồng nàn và trao cho nhau những tấm ảnh mà mặt trái ngang bằng những lời đề tặng nồng nàn.

Dù con có sợ, tình yêu vẫn cứ đến. Nếu là niềm vui thì con hãy giữ lấy và âu yếm, thương yêu . Nếu nó là vết thương lòng, có thể tâm hồn con gái vấn vương nhưng rồi ai đó sẽ băng hộ vết thương cho con. Nhưng bao giờ con tự hỏi: Người yêu con có chung thủy với con không? Cái thứ tình yêu mà đem ra mặc cả như một món hàng ngoài chợ thì không phải là tình yêu nữa.

Khi đã yêu con đừng tính toán, Nếu người con yêu là người nghèo khổ thì con hãy cùng họ lao động để tô thắm tình yêu, nếu người con yêu là một người cụt chân thì con sẽ là cái nạng vững chắc cho đời họ. Tình yêu đẹp nhất sẽ đến với con nếu con làm đúng lời Cha dặn.

Con phải độ lượng và giàu lòng tha thứ, nếu có sự hối hận thực sự thì con sẽ phải chung thủy với người mình yêu. Nếu con bỏ mất hai chữ quý giá đó thì con xấu hổ không có gì mua lại được. Con không thể tự hào với gia đình, chồng - con. Con phải luôn nghĩ rằng họ yêu con vì lẽ gì? Nếu họ yêu con vì sắc đẹp thì con phải nhớ rằng sắc đẹp sẽ tàn phai. Nếu họ yêu con vì chức tước thì con khẳng định người đó không yêu con. Con phải từ chối và trả lời rằng: "Địa vị không đem lại hạnh phúc cho con người mà chỉ có ai lao động chân thành mới thỏa lòng người chân chính".



Nếu con để kẻ nào đó đặt cái hôn ranh mãnh lên môi con thì trước khi hôn họ đã khinh con -> khi hôn họ cũng khinh và sau khi hôn họ càng khinh hơn. Người nào biết sống vì con, vui khi con có tin vui, buồn khi con có nỗi buồn -> người đó nhất định sẽ là chồng con. Hãy yêu đi con, yêu tha thiết như Mẹ đã từng yêu Cha vậy.

Hôn con nhiều, Cha yêu con!

Thứ Tư, 23 tháng 10, 2013

Blog Radio 194 : Thư gửi người yêu cũ….

Gửi người yêu cũ: “Em rất tốt, còn anh?”

Nắng chói chang, nền trời cũng xanh thẳm. Ta rong ruổi lặng im trên chuyến xe trở về nhà, cũng như tất cả những chuyến đi trước đây của ta, đi là để trở về, đi là để thêm yêu và trân trọng hơn những gì ta đang có. Núi cao, núi vòng quanh, núi mở ra bức tranh đồng quê mà đã rất lâu rồi ta mới thấy lại. Bản tình ca mùa hè bất chợt vang lên, nhịp nhàng nhịp nhàng, ta thấy mình xoay trong những bước nhảy của thời gian và tất cả những gì đã qua trở về như một cuốn phim trước mắt.

Bản nhạc hết, giấc mơ dừng…

Nhắm mắt lại mà nghe…

Dư âm vẫn còn đây…

Dẫu biết…bản tình ca dành cho ta đã vỡ vụn


Thư gửi người yêu cũ….
 
Người yêu cũ à! Phía sau một cô gái là gì anh biết không? Có một người đã nói rằng “Phía sau một cô gái là những nỗi nhớ xếp thành dãy…” Và với em nó chính là nỗi nhớ về những gì đã qua mà ta không thể nắm giữ, nỗi nhớ về những phần YÊU đã mất đi.

Chỉ mới hôm qua thôi ta vẫn còn nồng nàn gọi nhau bằng hai tiếng “[[Người yêu][”, chỉ mới hôm qua thôi ta vẫn trịnh trọng giới thiệu với người khác về hai chữ “người yêu”. Nhưng ngày hôm qua là ngày đã qua và không bao giờ quay lại, còn ngày hôm nay mới thực sự là cuộc sống, và chúng ta trở thành những người khác trong cuộc sống của nhau. “Người yêu cũ”của nhau.

Người yêu cũ à! Anh nghĩ rằng em sẽ hận anh ư? Anh nghĩ rằng em sẽ gục ngã vì anh ư? Em đủ lớn để sống, đủ lớn để bước đi vậy thì cũng sẽ đủ lớn để chấp nhận mọi sóng gió của cuộc đời. Anh có thể đã làm em rất đau, đã khiến những giọt nước mắt đắng ngắt từ bờ mi em rơi xuống nhưng điều đó không đồng nghĩa rằng em sẽ phải quỵ ngã vì nỗi đau, không đồng nghĩa với việc rằng em sẽ phải sống với nỗi đau mà anh mang đến. Cuộc đời này chỉ là một chuyến xe hà cớ gì ta phải hận, hà cớ gì ta cứ phải đau trong khi người gây ra nỗi đau cho ta thì đang hạnh phúc ở một trạm xe trước đó?

Người yêu cũ à!.Anh đã xóa tên em trong danh bạ điện thoại, xóa tên em ra khỏi Friendslist của Yahoo Messenger, xóa tan hoang cái blog anh viết cho em, xóa hết những gì về em ra khỏi cuộc sống của anh nhưng có một thứ anh sẽ không bao giờ xóa được đó là “Kí ức”. Anh có xóa được kí ức không? Có xóa được những kỉ niệm về nhau không? Có xóa được tiềm thức của gia đình và bạn bè chúng ta rằng chúng ta đã từng là một đôi? Liệu khi tình cờ nghe lại một bài tình ca cũ từng dành cho em, đi qua một con đường cũ ngập tràn kỉ niệm lòng anh sẽ không chút lăn tăn về những yêu thương đã có?
 
2.jpg
Ảnh minh họa
 
Còn em, em chọn cách bước đi, em chọn cách gói gém kỉ niệm và đau thương. Có thể ngày hôm nay đây em vẫn khóc vì anh, khóc vì một tình yêu đã mất. Có thể trên những hành trình tiếp theo trong chuyến xe cuộc đời sẽ có những phút giây buồn vui, thành công hay thất bại mà em nhớ đến anh nhưng nỗi nhớ đó không phải dành cho anh, nó dành cho quá khứ, dành cho những gì đã qua mà em vẫn còn nâng niu và trân trọng.

Người yêu cũ à! Anh nói em là một kẻ yếu đuổi nhưng anh biết không em là kẻ yếu đuối trong số những người mạnh mẽ nhất. Chúng ta đơn giản chỉ là những người đã từng đi chung trên một chuyến xe cuộc đời, trạm xe mà anh đã xuống với anh mang tên là “hạnh phúc”, còn em vẫn sẽ ngồi lại, rong ruổi với hành trình của mình, hành trình kiếm tìm cũng mang tên “hạnh phúc”.

Người yêu cũ à! Đừng bao giờ ghét nhau anh ạ… Bản tình ca mang tên “Mười năm” mà chúng ta đã nghe ở quán Café năm ấy có lẽ sẽ không bao giờ còn được cất lên, nhưng mười năm sau khi gặp lại, khi chúng ta đã trở thành những kẻ xa lạ trong cuộc sống của nhau, em vẫn sẽ mỉm cười nhìn anh và nói “Chào anh! Em rất tốt còn anh thì sao?” 

Người yêu cũ à! Kí ức về anh đã gói gém xong rồi và giờ là lúc em phải cất nó đi,em mang theo nó trong hành trình tiếp theo của mình. Anh nghe thấy chưa? Người phụ xe noí với em rằng “Trạm tiếp theo: Lạc quan”; “Trạm tiếp theo: Vui vẻ” ; “Trạm tiếp theo: Hạnh phúc”.

Tháng 8, tôi gửi đi một lá thư, điạ chỉ mang tên là Cảm giác, người nhận thư mang tên Vĩnh viễn.
                                                                             
Cá Rô

1274897981_1274868529-tro-lai-3.jpg
Ảnh minh họa

Vì đã từng thuộc về nhau...

Nếu 1 ngày mình gặp mặt khi bước trên 1 con đường chỉ biết đi qua nhau mà không chào hỏi, không phải vì không muốn mà bởi vì không thể... Vì những kỉ niệm đẹp, những quá khứ buồn không thể quên...

Vì đã từng thuộc về nhau...

Nên đừng làm tổn thương nhau sau khi chia tay... Vì mình đã từng thuộc về nhau...
Nếu có thể xin hãy im lặng...

Nếu có thể xin hãy nhìn về con đường phía trước...

Đừng quay đầu lại...

Đừng hối tiếc điều gì!

Vì mình đã từng là của nhau...

Nếu có thể xin hãy hạnh phúc! Đừng buồn, đừng nhớ, đừng mong....

Nếu có thể hãy quên đi....

Cái gì đã qua hãy cứ để nó qua đi vì mình không còn khả năng giữ ng đó ở bên cạnh, không thể mang lại hạnh phúc thì xin hãy để mọi chuyện là kỉ niệm, là quá khứ để khi nghĩ lại cảm nhận được niềm hạnh phúc khi đã từng yêu và được yêu.... Vì anh giống như cơn gió, e chỉ là ngọn cỏ bé nhỏ sao có thể giữ chân anh?

Vì đã từng thuộc về nhau...

Nên sẽ cố gắng giấu đi cảm xúc trong lòng để rồi một ngày xa lắm nhìn lại sẽ cảm thấy nhẹ lòng...

Sẽ cảm thấy vui khi anh hạnh phúc bên người khác, không phải là em!

Có nhiều người đã từng yêu và được yêu không phải chỉ mỗi mình em....

Cũng có nhiều ng đã đánh mất một nửa của mình, không phải chỉ mỗi mình em...

Em vẫn sống tốt, vẫn cười mỗi ngày, vẫn ăn đúng giờ, ngủ đúng giấc, chẳng có gì thay đổi trong cuộc sống... Có chăng chỉ là thiếu 1 người bên cạnh, quan tâm và coi em là 1 người quan trọng....Có chăng chỉ là cảm giác cô đơn, chỉ là nỗi nhớ....

Nếu như anh đã tìm thấy 1 người bên cạnh, nếu như vị trí đã từng là của em trong lòng anh đã là của người khác thì em chúc anh hạnh phúc! Dù trong lòng em...

Cuối cùng hôm nay em đã hiểu, không còn trách móc, đau khổ hay buồn phiền.... Xin lỗi vì thời gian qua e chẳng hiểu anh dù chỉ 1 chút... Em chỉ biết nói em yêu anh mà không biết anh cần gì và muốn gì... Cuối cùng anh vẫn là anh....

Trúc Nguyên
 
3.jpeg
Ảnh minh họa

Thế đâu phải chia tay…

Lời tác giả: “Có ai đó đã nói rằng, thật khó chia động từ “yêu”: quá khứ của nó không đơn giản, hiện tại chỉ là trình bày, còn tương lai vẫn còn ở thức điều kiện. Cũng có lẽ bởi vậy mà cho tới bây giờ, tình yêu vẫn luôn là một bí ẩn mà con người chưa thể định nghĩa và lí giải nổi. Nhưng, tình yêu vẫn cứ đến bên mỗi người như một món quà mà Thượng đế ban tặng. Nó vẫn ngân lên trong muôn vàn cung bậc của xúc cảm.”

Blogger Ice : Lạnh nhưng… ngọt

Đêm

Thành phố như khoác lên mình một tấm áo mới trong ánh đèn lung linh với những màu sắc biến ảo. Màn đêm buông xuống kéo trùng cái ồn ào, xô bồ của cuộc sống thường nhật. Đêm, thu lại ở một góc nhỏ của phố phường, để lắng nghe hai con tim đã không còn chung một nhịp đập.

- Mình… dừng lại ở đây thôi, em nhé. Anh không muốn tiếp tục thế này nữa !

Em nhìn tôi không chớp mắt. Cái nhìn thẳm sâu như muốn kiếm tìm một sự thật ẩn trong đó.

- Anh thực sự muốn như vậy?- Em khẽ hỏi.

1s…2s…3s…Thời gian như đứng lại. Phải chăng cuộc sống vốn vẫn vậy, luôn có quá nhiều câu hỏi và quá ít câu trả lời. Hay bởi, lúc này câu trả lời tốt nhất là sự lặng.

Hàng mi dài khẽ cụp xuống. Một nụ cười nhẹ như gió thoảng trên môi em mang theo cả một nỗi sầu khôn nguôi.

- Em hiểu rồi…

- …

- Taxi…

Em sải bước thật nhanh về phía chiếc xe. Muốn kéo em lại nhưng những lời đã nói ra…Tất cả như kìm chân tôi lại. Chiếc taxi phóng vụt qua tôi, khuất bóng phía chân cầu.

Còn mình tôi với những ngọn đèn đêm.
 
4.jpg
Ảnh minh họa

Ngày không em…

Tiếng chuông báo thức réo inh ỏi vang khắp căn phòng. Tỉnh giấc. Đầu đau nhói Mùi rượu vẫn bám trên cơ thể. Đêm qua, chẳng nhớ mình đã uống bao nhiêu. Chỉ biết càng uống càng tỉnh và chẳng thể quên…Trong khoảnh khắc, tôi đã để em bước ra khỏi cuộc đời mình. Ngỡ như mơ nhưng đó là sự thật. Một lựa chọn của chính tôi.

Trước khi gặp em, mọi người trong công ty gắn cho tôi cái mác “robot”. Nụ cười vắng bóng trên khuôn mặt tôi cũng tựa như mưa chẳng mấy khi ghé thăm sa mạc. Sự lạnh lùng toát ra từ vẻ ngoài. Ngày ấy, tôi lao vào công việc, vắt kiệt sức mình vào những dự án mới nối tiếp…Tất cả những gì tôi làm khi đó chưa hẳn bởi nhiệt huyết của một chàng trai 22 tuổi mà cốt yếu tạo cho mình một cái “vỏ bọc” để chốn tránh, để lãng quên những nỗi buồn ẩn sâu, để xoa dịu phần nào những vết thương vẫn còn rất mới trong tim vần nhói đau hàng đêm… Thật chẳng khác nào “robot”. Không sống thật vớ chính bản thân mình. Ngột ngạt, bức bí và có chút hèn nhát nhưng đó lại là cách sống mà tôi đã chọn.

Cuộc đời vốn chẳng phải một con đường thẳng tắp mà còn biết bao đường vòng, lối tắt.Và ngày tôi gặp em, vào đúng thời điểm ấy cũng là khi một ngã rẽ mới được mở ra. Em bước vào cuộc sống của tôi thật nhẹ nhàng. Em đến, băng lại vết thương trong lòng tôi bằng những chiếc băng keo của sự quan tâm chân thành và thấu hiểu thật sự. Em đến sưởi ấm con tim tôi lạnh giá để thêm một lần nó lại biết rung động sau bao lần tự hứa khép cửa trái tim và sẽ chẳng để ai bước vào. Em đã mang một điều thật quý giá trở lại bên tôi. Đó là tình yêu. Và từ ngày ấy, “robot” biết cười !

Duyên may đã mang đến một tình yêu mà tôi không ngờ tới. Gần hai năm là một quãng thời gian hạnh phúc bên em. Lẽ ra, tôi sẽ là người hạnh phúc. Có điều…trong tôi, một người đàn ông, vẫn luôn tồn tại con người tham vọng. Tình yêu của em đã là động lực để nó được tiếp thêm sức mạnh. Nhưng trớ trêu thay, tình yêu của em càng lớn bao nhiêu thì con người tham vọng đó càng lấn át con người tình thương trong tôi bấy nhiêu. Mỗi phút giây trôi qua khiến tôi hạnh phúc hơn nhưng cũng dễ bị tổn thương hơn và đã có lúc sự yếu đuối hiện diện trong tôi. Vì chính tôi đang làm người tôi yêu tổn thương thật nhiều, dù chưa một lần em nói ra điều đó nhưng tôi đọc thấy tất cả qua ánh mắt nâu buồn và những khoảng lặng chẳng nói thành lời khi bên em. Thẳm sâu trong lí trí vẫn luôn mách bảo, nếu yêu em, tôi phải rời xa em vì nếu tiếp tục với tôi, em sẽ tổn thương thật nhiều. Tôi không xứng đáng với tình yêu của em. Khi nhận ra điều này cũng là lúc tôi biết…một ngày nào đó tôi sẽ mất em…

Và, cái ngày đó chính là ngày hôm qua.
 
5.jpg
Ảnh minh họa

Tôi đã để em bước ra khỏi cuộc đời mình như chưa từng đến. Em có thể oán hờn tôi là một kẻ vô tình. Nhưng tôi không muốn một ngày nào đó chính tôi lại là kẻ bóp nghẹt con tim của người con gái đã mang tình yêu đến bên tôi và thay thế nụ cười trong veo của em bằng những giọt nước mắt đắng chát. Tôi không muốn như thế. Tình yêu nơi con tim tôi dành cho em vẫn còn vẹn nguyên nhưng tôi đã đánh đổi…Có lẽ đó cũng là lần sau cuối tôi khiến em phải đau lòng. Tàn nhẫn với em, cũng là tàn nhẫn với bản thân. Vết thương ấy sẽ mãi nhức nhối không thôi bởi vì yêu em, tôi đã từ bỏ chính em !

Ngày không em, chẳng còn dư vị cả sự ngọt ngào từ những niềm vui nho nhỏ mà em mang lại.

Ngày không em, chông chênh nhớ…

Ngày không em, cuộc sống của tôi thiếu đi thật nhiều…

Ngày không em, tôi quay trở lại với cuộc sống trước kia, khoác cho mình một “vỏ bọc” lạnh lùng hơn trước. Chưa khi nào tôi sợ những phút giây ngơi nghỉ như lúc này. Bởi đâu đó trong con tim tôi vẫn luôn có bóng hình em, từng suy nghĩ vẫn hướng về em. Và lòng tôi lại nhói đau…

Lao đầu vào công việc như một kẻ điên dại, tôi đổi lại được sự thăng tiến trên thang danh vọng. Đó là thành công do chính tôi tạo dựng bằng khả năng của mình. Đáng tự hào, đáng vui. Vậy mà trong tôi, niềm vui ấy chưa bao giờ trọn vẹn khi chính những lúc đó sự cô đơn bủa vây lấy tôi, chẳng có lấy một người hiểu mình để sẻ chia. Với thời gian, tôi đã cố làm cho mình nghĩ rằng tôi đã quên em. Nhưng , không có em, tôi nhận ra, mình sẽ luôn cảm thấy cô độc.

Cuộc đời như một trò chơi tung hứng với năm quả bóng mang tên: công việc, gia đình, sức khoẻ, bạn bè và tình yêu. Tung chúng lên không trung, ta sẽ thấy ngay công việc là quả bóng cao su vì khi rơi xuống đất nó sẽ lại nảy lên. Nhưng bốn quả còn lại đều là những quả bằng thuỷ tinh. Nếu lỡ tay đánh rơi một quả, nó sẽ bị trầy xước, có tì vết, bị hư hỏng, thậm chí bị vỡ nát. Chúng không bao giờ trỏ lại như cũ. Tôi đã tung hứng quả bóng công việc thật tài tình. Nhưng quả bóng tình yêu thì không. Tôi đã để nó tuột ra khỏi tầm tay mình. Để tới bây giờ, hơn lúc nào hết, tôi mong có em bên cạnh, như ngày xưa. Nhưng, có lẽ đã quá muộn màng…
 
55248437-1250825884-ban-tay-biet-nho-1.jpg
Ảnh minh họa

Ngày không anh…

Chiếc taxi khuất bóng dần và dừng lại ở phía dưới chân cầu.

Có lẽ anh sẽ không bao giờ biết, đêm đó đâu chỉ có mình anh đứng lặng hàng giờ trên cầu. Mà còn một người đã thu cả bóng hình anh từ phía xa qua đôi mắt nhoà lệ. Là em.

Thượng đế đã ban cho mỗi con người một món quà đặc biệt, đó là tình yêu. Khi món quà ấy được trao tặng đi cũng là lúc tình yêu đâm chồi nảy lộc với những điều kì diệu và bí ẩn của nó. Ở đúng vào thời điểm đó, em đã gặp và trao món quà đó vào tay anh. Chưa một lần em tự hỏi, anh có xứng đáng với nó hay không? Chỉ bởi tình yêu đâu phải món hàng ngoài chợ để mà mặc cả. Em đã trao nó đi mà không toan tính thiệt hơn.

Em không thể lựa chọn tình yêu nhưng tình yêu đã lựa chọn em. Và em đã đón nhận khi tình yêu đến từ nơi anh. Bao vui buồn, niềm hạnh phúc cũng như những nỗi khổ đau… đã được san sẻ trên suốt nẻo đường yêu. Nhưng ngày hôm nay, anh đã trao trả lại món quà ấy lại cho em. Có điều, nó không còn như trước nữa…

Ngày không anh, thời gian như trôi chậm lại. Em chìm trong hồi ức của những ngày đã qua. Từ mai, em sẽ bắt đầu lại một cuộc sống mới vắng anh trong đó. Em vẫn luôn nghĩ, mình đủ mạnh mẽ để bước về phía trước. Vấn đề chỉ là thời gian bởi nếu như tình yêu khiến người ta lãng quên thời gian thì chính thời gian cũng khiến người ta lãng quên tình yêu. Nhưng thật sự khó vô cùng khi nỗi nhớ trong em vẫn thật đậm sâu và cho tới ngày ấy, con tim em sẽ chỉ là một khoảng trống vô định.

Ngày không anh, em chẳng còn được thu mình nhỏ nhắn trong vòng tay anh ấm nồng.

Ngày không anh, đã bao lần sâu thẳm trong lòng em tự hỏi: ở nơi kia, trong một phút giây nào đó, anh có còn nhớ tới em?

Ngày anh để em ra đi, trước sự im lặng không nói, có một điều em vẫn mãi đinh ninh rằng: “ Thế đâu đã phải là chia tay !”

Và, nếu có một cơ hội cuối trở lại tìm nhau, liệu anh có cố gắng bằng cả bản thân để hàn gắn những mảnh vỡ nơi con tim em ?

“Boomerang tình yêu”…

Nỗi nhớ em da diết dẫn lối, đưa tôi trở về những miền kí ức, trở về nơi ghi dấu bao kỉ niệm ngọt ngào giữa chúng tôi. Đúng ngày này, hai năm về trước, có một người con gái đã đổi tên cây cầu vượt thành “cầu vồng nhân tạo” trong tiếng cười trong veo để ghi dấu tình yêu của chúng tôi. Cũng chính là người con gái ấy đã mang lại nụ cười, khiến tôi biết cố gắng trong suốt những tháng ngày sau đó. Nhưng cũng tại nơi đây, bằng chính lựa chọn của mình, tôi đã để em ra đi. Tôi luôn nghĩ một mình sẽ mạnh. Yêu thương làm tôi mất đi sức mạnh đó. Nhưng, tôi đã nhầm! Khi đứng ở đỉnh cao của thành công, danh vọng và tiền tài, có lẽ cũng là khi con người ta cảm thấy cô đơn hơn cả nếu chẳng có lấy một người để sẻ chia. Hơn lúc nào hết, tôi cảm nhận thấm thía điều đó. Vắng em, mới biết tôi cần em tới nhường nào, mới hiểu em có [[ý nghĩa[]] trong cuộc sống của tôi xiết bao. Vắng em mới thấy, con tim lạnh giá.

Tôi đứng đó, trơ trọi. Ánh đèn đêm nhoè dần qua khoé mắt cay cay.

Trong khoảnh khắc, ngỡ như mơ, một bàn tay khác đan vào tay tôi. Phút chốc, khoảng trống giữa những ngón tay tôi được lấp đầy bằng những ngón tay nhỏ bé mà thật ấm áp. Bàn tay ấy đã quá thân thuộc với tôi. Bàn tay của yêu thương, của Em - người con gái tôi yêu!

- Đó đâu là chia tay, phải không anh…?

Nếu tình yêu có điều kì diệu thì chính là khoảnh khắc này đây. Chiếc “boomerang tình yêu” đưa em trở lại bên tôi.

Xiết chặt tay em và sẽ không bao giờ tôi đánh rơi những yêu thương một lần nữa bởi một mình thì đi nhanh hơn nhưng có hai người sẽ đi được xa hơn.

Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC GIẢNG DẠY KINH ĐIỂN NHO GIA CHO NGÀNH HÁN NÔM BẬC ĐẠI HỌC

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC GIẢNG DẠY
KINH ĐIỂN NHO GIA CHO NGÀNH HÁN NÔM BẬC ĐẠI HỌC
Hiện nay, trong chương trình đào tạo của ngành Hán Nôm tại Khoa Văn học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, thuộc về phần kiến thức cơ bản của ngành có ba bộ phận:
1. Hán văn Trung Quốc.
2. Hán văn Việt Nam.
3. Chữ Nôm.
Trong đó, phần các văn bản kinh điển Nho gia là cốt lõi của bộ phận Hán văn Trung Quốc. Bài viết này đề cập đến một số vấn đề nhỏ xung quanh việc giảng dạy nhóm văn bản này.
Các kinh điển Nho gia, trước hết là những điển tịch tối cổ, là những tư liệu văn hiến gốc, kết tinh của văn hóa truyền thống Trung Hoa, nội dung vô cùng phong phú, bao quát nhiều mặt của văn hóa xã hội Trung Hoa thời thượng cổ. Đến khoảng đầu đời Hán, Nho thuật được độc tôn, những điển tịch hạt nhân của Nho gia này mới được tôn sùng, thần thánh hóa lên hàng kinh điển, với ý nghĩa là đạo lý vĩnh hằng, bất biến (cho dù trước đó, trong một số thư tịch Tiên Tần như Trang tử, Tuân tử, Mặc tử đã có cái tên “kinh”, nhưng chưa có ý nghĩa như thế). Cũng từ đó, trải hơn 2000 năm ở Trung Hoa, các kinh điển trở thành đối tượng học chính yếu, cũng là nấc thang để bước lên danh vọng của sĩ nhân. ảnh hưởng của nó dần dà lan rộng ra các vùng xung quanh như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam…, hình thành một khu vực đồng văn. Cái học lấy những kinh điển đó làm đối tượng gọi là Kinh học trở thành môn học thuật vào loại tôn quý bậc nhất trong học thuật Trung Hoa hàng ngàn năm.
Toàn bộ kinh điển Nho gia, từ Lục kinh (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu) ban đầu; rồi mất Kinh Nhạc còn Ngũ kinh, rồi tăng dầnThất kinh, Cửu kinh, Thập nhị kinh, cho đến thời Tống là Thập tam kinh, cả thảy có mười ba bộ, bao gồm: Chu Dịch, Thượng Thư, Mao Thi, Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Ký, Xuân Thu Tả thị truyện, Xuân Thu Công Dương truyện, Xuân Thu Cốc Lương truyện, Luận ngữ, Hiếu kinh, Nhĩ nhã, Mạnh tử. Nhưng nói đến kinh điển Nho gia, người ta quen thuộc với  Tứ thư Ngũ kinh hơn.
Tứ thư bao gồm Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh tử, được xác lập vào đời Tống, mà người đầu tiên đặt tên là đại nho Chu Tử (Chu Hy). Chu Tử đã rút hai thiên Đại học và Trung dung trong Lễ ký ra hợp với Luận ngữ, Mạnh Tử rồi tiến hành chú giải, đặt tên cho tác phẩm của mình là Tứ thư chương cú tập chú. Cái tên Tứ thư ra đời từ đó.
Ngũ kinh vốn có từ đời Hán bao gồm Thi, Thư, Lễ (Nghi lễ), Dịch, Xuân Thu (chủ yếu là Công Dương truyện). (Hán Vũ Đế đã đặt Ngũ kinh Bác sĩ chuyên trị các kinh điển này). Nhưng Ngũ kinh phổ dụng hiện nay là được định hình vào đời Đường. Để thống nhất học thuật, Đường Thái Tông đã tiến hành chuẩn hóa kinh điển, giao cho Nhan Sư Cổ cố định về mặt văn bản gồm năm bộ, gọi là Ngũ kinh định bản, sau đó giao cho nhóm Khổng Dĩnh Đạt tiến hành sớ giải làm tiêu chuẩn về mặt nội dung, gọi là Ngũ kinh chính nghĩa, bao gồm: Chu Dịch, Thượng Thư, Mao Thi, Lễ ký, Xuân Thu (Tả thị truyện). Suốt mấy trăm năm đời Đường, Ngũ kinh chính nghĩa là tài liệu quan phương chính thống cho giáo dục và khoa cử. Tứ thư được chính thức đưa vào khoa cử từ đời Nguyên (lấy Tập chú của Chu Tử làm tiêu chuẩn), qua Minh, Thanh kiện toàn thêm một bước, vị trí của Tứ thư được đề cao, có phần vượt cả Ngũ kinh. Người học phải học thông Tứ thư trước rồi mới học đến Ngũ kinh. Từ đó, đề thi về kinh điển chỉ ra trong Tứ thư Ngũ kinh mà thôi. Trong khoa cử, kinh nghĩa luôn ở vị trí trường thứ nhất, là ngưỡng cửa tiến vào khoa cử. Nếu không vượt qua được cửa này, sĩ tử sẽ không vào được kỳ tiếp theo, có nghĩa là bị loại khỏi khoa cử. Nó được xem như thước đo học thức và tâm thuật của người học. Do vậy, trong “thập niên đăng hỏa”, đại bộ phận thời gian, tâm huyết dành cho “nấu sử sôi kinh”.
Ở Việt Nam, từ thời Lý, Nho học được xác lập với việc dựng Văn miếu, mở Quốc tử giám và bắt đầu mở các khoa thi Nho học. Khoa thi đầu tiên là Minh kinh bác sĩ, rồi thi Nho học ba trường, chọn những người thông Kinh Thi, Kinh Thư vào hầu ngự diên…Đến cuối Trần tiếp thu quy chế khoa cử đời Nguyên với bốn trường, về cơ bản đã định chế cho khoa cử sau này.Thời Lê sơ kiện toàn chế độ khoa cử theo mẫu mực triều Minh (định chế này tồn tại cho đến khi chấm dứt khoa cử). Trong nội dung thi, Tứ thư, Ngũ kinh là trung tâm, trường kinh nghĩa luôn luôn ở vị trí số một. Sĩ nhân Việt Nam không nằm ngoài quỹ đạo chung - kinh điển là đối tượng học trung tâm của họ. Những quy chế về khoa cử mặc nhiên sẽ quy định đường hướng cho việc giáo dục, học tập của toàn xã hội.
Nói như vậy để thấy rằng việc đưa phần văn bản kinh điển vào chương trình đào tạo Hán Nôm bậc Đại học hiện nay là rất đúng đắn vì nó hết sức cần thiết.
Cho dù trải thời gian, qua binh hỏa đã bị tán thất khá nhiều, chúng ta vẫn được thừa hưởng một số lượng thư tịch Hán Nôm khá lớn và rất phong phú của ông cha. Đó là kết tinh trí tuệ và tâm huyết của tiền nhân mà chúng ta có nhiệm vụ phải gìn giữ và khai thác. Đó là nhiệm vụ mà nhà nước giao cho ngành Hán Nôm nói chung, cũng là mục tiêu đào tạo của ngành Hán Nôm ở Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
Để có thể khai thác, tức là nghiên cứu những giá trị tiềm ẩn trong kho thư tịch Hán Nôm đồ sộ đó phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày nay, công việc trước tiên, và bắt buộc của người làm Hán Nôm là phải hiểu được văn bản, giải mã được văn bản, hay nói nôm na là phải “đọc thông mặt chữ”. Việc dịch và công bố ngày một nhiều các thư tịch trong di sản Hán Nôm cũng là một công việc trọng tâm của chuyên ngành. Có giải quyết tốt được công việc này mới có thể tiến hành những bước nghiên cứu tiếp theo. Không thể có kết quả nghiên cứu tốt nếu như văn bản chưa được hiểu một cách chính xác. Đây là công việc không hề đơn giản, không phải chỉ biết nhiều chữ, nắm được văn pháp cơ bản là có thể đọc được, hiểu được tất cả các văn bản, nhiều khi đọc thông từ đầu đến cuối mà không thể dịch nổi một văn bản cổ. Nó đòi hỏi nhiều kiến thức khác mà người làm Hán Nôm cần trang bị. Đây là công việc lâu dài, thường xuyên liên tục, việc của cả một đời người chứ không phải chỉ trong mấy năm ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng, trong thời gian học ở trường, người học được trang bị một vốn kiến thức cơ bản nhất. Sau này tùy theo công việc mà người cán bộ phải trang bị thêm những kiến thức chuyên môn phục vụ cho công việc cụ thể của mình. Kinh điển chính là một trong những phần kiến thức cơ bản mà người làm Hán Nôm không thể không trang bị, dù ít dù nhiều - mà học ở trường là thời gian thuận lợi để làm việc đó.
Có thể nói rằng, đại bộ phận tác giả của các văn bản Hán Nôm là các nhà nho. Dù đỗ đạt hay không thì cái mà họ được hun đúc, đào tạo từ ban đầu là nho học, là kinh điển. Họ sống trong môi trường nho giáo, trước tác theo tinh thần nho học. “Văn hiến thiên niên quốc” mà chúng ta tự hào chính là từ ở đó. Những nội dung đạo lý cũng như chữ nghĩa của kinh điển đối với họ đã quá nhuần nhuyễn, đến mức dường như đã trở thành cái gì đó máu thịt trong họ. Khi viết, nó sẽ tuôn trào ra đầu ngọn bút một cách tự nhiên. Hơn nữa, quan niệm của người xưa là dùng văn chương để mà chở đạo, học theo thánh hiền, viết theo cổ nhân, “dĩ thánh hiền lập ngôn”. Khi cần viết về một vấn đề gì đó, họ sẽ tìm ra trong điển tịch xưa những điểm tương đồng, rồi dùng những từ ngữ, thậm chí từng đoạn trong kinh điển, trong tử, sử, cổ thư để viết ra, có như vậy mới là uyên thâm, điển nhã. Dẫn dụng được nhiều chữ nghĩa trong kinh điển, trong sách cổ, dùng được nhiều điển cố chính là thể hiện mức độ uyên bác, hay chữ, văn tài của tác giả. Điều này sẽ càng đậm đặc hơn nếu tác giả của các văn bản ấy là bậc đại khoa, danh sĩ, hay ở trong các văn bản quan phương chính thống như văn hành chính, nghi thức nhà nước và văn chương khoa cử. Tùy theo nội dung mà cách viết, trưng dẫn khác nhau, như văn hành chính sẽ chịu nhiều ảnh hưởng của Kinh Thư... Do vậy, để hiểu được, để dịch được chính xác văn bản thì trong một chừng mực nào đó, người làm Hán Nôm phải đằm mình vào văn hóa cổ, ít nhiều phải được học những cái mà cổ nhân ngày xưa đã học. Khó có thể hiểu được một cách đúng đắn và sâu sắc những câu dù chỉ vài chữ như “Trung hòa vị dục” ở trước điện Thái Hòa trong Đại nội Huế, như “Thể vật bất di”, “Thận chung truy viễn”trong một ngôi miếu, một ngôi từ đường ở một thôn quê… nếu như chỉ dựa đơn thuần trên mặt chữ mà chưa từng đọc những sách Trung dung, Luận ngữ… Không ít trường hợp đã dịch sai, hiểu sai vì chỉ dựa trên từ ngữ thông thường mà không biết nó vốn nằm trong kinh điển mang những nghĩa đặc thù …
Vậy là ở ngành Hán Nôm, học kinh điển không có nghĩa là phục hồi Nho học, mà học để phục vụ cho công việc chuyên môn mà người học sẽ phải đảm nhiệm khi ra công tác sau này. Việc dạy kinh điển cũng phải khác, bằng phương pháp mới, với cách tiếp cận mới trong điều kiện hiện đại, phần nào có chọn lọc tiếp thu nhưng không phải rập khuôn cách thức truyền dạy của cổ nhân.
Theo tôi, học kinh điển ở ngành Hán Nôm bậc Đại học trước hết nhằm hai mục đích:
Thứ nhất, qua việc học kinh điển, người học được tăng cường về mặt chữ nghĩa, được bổ sung vốn từ, văn pháp, các mẫu câu, danh cú…Kinh điển Nho gia là một trong những chuẩn mực của văn ngôn, thứ ngôn ngữ viết mà đại bộ phận các tác gia lịch đại dùng để viết. Nó có tác dụng trực tiếp cho việc giải mã các văn bản.
Thứ hai, qua việc học, người học dần thâm nhập vào nho học từ gốc rễ với một loạt những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất. Đây là một lợi thế làm cơ sở để người học tiếp tục được hệ thống hóa, mở rộng và phát triển qua các chuyên đề về nho giáo, về giáo dục khoa cử… sẽ học ở thời gian tiếp theo, bổ sung kiến thức văn hóa nền cho người làm Hán Nôm.
Từ đó đặt ra một loạt vấn đề cho việc dạy, như sẽ phải chọn lựa như thế nào? giảng vào phần nào? với cách thức ra sao ?
Các kinh điển Nho gia có dung lượng khá lớn, nội dung bao quát nhiều vấn đề, chữ nghĩa cổ áo. Các trước tác liên quan đến kinh điển ở Trung Quốc vô cùng lớn (riêng nó tạo thành một bộ phận - bộ phận đứng đầu trong bốn bộ phận của thư mục cổ Trung Hoa: kinh, sử, tử, tập). Thời lượng dạy toàn bộ Tứ thư, Ngũ kinh trong chương trình đào tạo Hán Nôm bậc Đại học của ngành Hán Nôm là 25 đơn vị học trình (tương đương với 375 tiết), cũng là đáng kể so với chương trình đào tạo của chuyên ngành chỉ có 5 học kỳ nhưng để dạy kinh điển thì lại là thời lượng rất khiêm tốn. Do vậy, một số sách có dung lượng nhỏ như Đại học, Trung dung có thể dạy toàn bộ, còn lại đều phải trích giảng. Như vậy phải chọn lựa đưa phần nào vào chương trình, cần phải có tiêu chí cụ thể. Mỗi kinh chỉ có thể trích giảng một số thiên quan trọng nhất, có giá trị cao về mặt nội dung, đặc biệt là có ảnh hưởng lớn đến trước tác của các tác gia. Ví dụ Kinh Dịch không thể không học quẻ Càn, quẻKhôn… Kinh Thư không thể không học Nghiêu điển, Thuấn điển, Đại Vũ mô, Hồng phạm… Kinh Lễ không thể bỏ qua Lễ vận, Nhạc ký… Có khi trong một thiên dài chỉ trích tuyển phần cơ bản nhất.
Về nội dung, đọc kinh điển nhất định phải sử dụng các bản chú giải- nhưng từ xưa đến nay, những loại tác phẩm chú dịch kinh điển như giải hỗ, chương cú, truyện, chú, sớ, tiên, thích, chính nghĩa, tập chú, tập truyện, tập thuyết, dịch chú, kim chú kim dịch, toàn dịch… nhiều không kể xiết, ý kiến của các nhà lại rất khác nhau, thậm chí chống nhau. Vậy nên chọn lựa thế nào, lấy bản nào làm nền ? Tiếp thu thêm ở đâu ?
Xuất phát từ mục tiêu sinh viên Hán Nôm học kinh điển là để phục vụ cho công việc chuyên môn là dịch, nghiên cứu di sản Hán Nôm chứ không phải học kinh điển để làm kinh học hay để chuyên nghiên cứu kinh điển (có thể có một bộ phận rất nhỏ sẽ đi theo hướng này, nhưng chắc chắn không nhiều). Vì vậy cần phải chọn lựa cái gì là cần thiết nhất, thích hợp với đối tượng học. Việc này cần có sự cân nhắc rất kỹ. Trước hết cần phải ưu tiên hệ thống sách kinh điển chính thống quan phương mà người xưa dùng làm tiêu chuẩn cho giáo dục và khoa cử. ảnh hưởng của kinh điển trong thư tịch Hán Nôm chính là theo tiêu chuẩn này, cách hiểu này.
Như mọi người đều biết, ở nước ta, Nho giáo đến thời Lê Thánh Tông đã lên đến vị trí độc tôn, chế độ khoa cử cũng được kiện toàn đạt đến chuẩn mực nhất ở thời này, đời sau về cơ bản là không có thay đổi gì lớn. Hệ thống kinh điển dùng làm tiêu chuẩn cho giáo dục và khoa cử là hệ thống sách Đại toàn của nhà Minh được ban hành vào niên hiệu Vĩnh Lạc thời Minh Thành Tổ. Tứ thư đại toàn và Ngũ kinh đại toàncủa nhà Minh thực chất không có thành tựu gì lớn về mặt kinh học mà về cơ bản chỉ là tiếp nhận và phát huy cái học nghĩa lý của kinh học thời Tống. Cụ thể như sau:
Tứ thư lấy Tập chú của Chu Hy làm chủ.
Kinh Dịch lấy Dịch truyện của Trình Di và Bản nghĩa của Chu Hy làm chủ.
Kinh Thư lấy Tập truyện của Sái Thẩm (học trò của Chu Hy) làm chủ.
Kinh Thi lấy Tập truyện của Chu Hy làm chủ.
Kinh Lễ lấy Tập thuyết của Trần Hạo (đời Nguyên) làm chủ.
Kinh Xuân Thu lấy Truyện của Hồ An Quốc (đời Tống) làm chủ.
Hệ thống sách Đại toàn này được dùng làm tiêu chuẩn cho giáo dục và thi cử suốt các đời Minh, Thanh của Trung Quốc và Lê, Nguyễn của Việt Nam.
Do vậy, nó là tài liệu giáo khoa bắt buộc của sĩ nhân, có tính chính thống, ảnh hưởng cực sâu rộng. Nhà Nho học theo sách ấy, với cách hiểu ấy, thi theo nội dung ấy và chấm thi lấy đỗ theo tiêu chuẩn ấy. Lẽ dĩ nhiên, ảnh hưởng của kinh điển trong các trước tác của họ cũng theo nội dung ấy. Ví dụ câu “Công hồ dị đoan, tư hại giã dĩ” trong Luận ngữ xưa nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng cách giải thích“công hồ dị đoan” nghĩa là “chuyên chủ vào dị đoan” trong Tập chúcủa Chu Tử được xem là phổ biến nhất trong các thư tịch.
Vì vậy chương trình dạy kinh điển cho ngành Hán Nôm ở bậc Đại học ưu tiên chọn văn bản trong hệ thống này làm nền để giảng dạy. Cũng cần phải nói thêm rằng, các bản chú kinh theo tinh thần Tống học được đánh giá là giản minh, tinh xác, chú trọng cả về mặt huấn hỗ và mặt nghĩa lý, trong khi chú theo Hán học thì thiên về danh vật huấn hỗ, theo Thanh học thì thiên về khảo chứng, rất nặng nề, không phù hợp trong điều kiện dạy thời gian ngắn (chỉ cần so sánh Thư tập truyện của Sái Thẩm đời Tống với Thượng thư chính nghĩa của nhóm Khổng Dĩnh Đạt đời Đường và Thượng Thư kim cổ văn chú sớ của Tôn Tinh Diễn đời Thanh thì thấy ngay). Tất nhiên trong quá trình giảng dạy cần phải cung cấp cho người học những thông tin mới, những cách giải thích khác để đối chiếu, phân tích, đặc biệt là ý kiến của các học giả lớn thời cận hiện đại với những luận cứ khoa học có giá trị. Nhiều khi có thể dùng cách thức “ tập chú” để cho người học suy nghĩ và có kiến giải riêng. Nhưng có một điều khó là trong chương trình, Tứ thư được bố trí dạy ngay từ học kỳ đầu khi sinh viên bước vào chuyên ngành,vốn chữ Hán còn rất hạn chế, sinh viên khó có thể tiếp thu được những gì quá khó, quá sâu, vì họ chưa được chuẩn bị. Vì thế, dạy kinh điển ở bậc Đại học trước hết cần ưu tiên chú trọng vào những nội dung đã tương đối phổ biến và ổn định. Còn những vấn đề chuyên sâu và khó, những quan điểm mới nhất, những hướng nghiên cứu hiện đại, những vấn đề “kinh nghi” hóc búa…thì nên dành cho các chuyên đề ở bậc Cao học. Chương trình Cao học Hán Nôm cũng có các chuyên đề về Tứ thư Ngũ kinh. Ví dụ dạy Tứ thư ở bậc Đại học về cơ bản nên lấy Tập chú của Chu Tử làm nền, còn lên bậc Cao học, cũng là Tứ thưnhưng sẽ dạy theo cách thức khác, sâu hơn, rộng hơn, hệ thống hơn…
Thông qua các văn bản kinh điển để dạy trước hết là về chữ, về các kết cấu ngữ pháp… Nhưng dạy kinh điển không thể chỉ dừng lại ở bề mặt chữ nghĩa, dịch xuôi một cách hời hợt mà phải phát huy, cho người học lĩnh hội được những nghĩa lý sâu sắc hàm chứa trong đó. Có thế mới thấy được giá trị của các thư tịch được tôn lên hàng kinh điển, người học mới hiểu được sâu sắc và mới có thể sử dụng hữu hiệu vào các công việc chuyên môn cụ thể sau này được. Ví dụ chỉ một câu “Tự thành minh vị chi tính, tự minh thành vị chi giáo, thành tắc minh hỹ, minh tắc thành hỹ” trong Trung dung, nếu chỉ dịch ra thôi thì không có gì khó khăn nhưng sẽ rất mơ hồ, cần phải làm rõ thế nào là Thành ? Thế nào là Minh ? Thế nào là Tự thành minh ? Thế nào là Tự minh thành ? Tại sao lại gọi là Tính, gọi là Giáo ?... Hay câu “Trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn” trong Luận ngữ nếu chỉ dịch theo mặt chữ là “người trí thích nước, người nhân thích núi” thì không có gì là sâu sắc cả, cần phải làm sáng tỏ những nghĩa lý sâu sắc hàm chứa trong những câu chữ đơn giản như vậy. Đó là cái khó của việc dạy kinh điển.
Sinh viên Hán Nôm học kinh điển là những người hiện đại tiếp cận với một dạng văn bản bằng phương pháp khoa học. Do vậy cần phải trình bày với phương pháp khoa học. Dù là sơ đẳng, từng kinh điển cũng phải khái quát về các mặt văn bản, tác giả, quá trình truyền thụ, những giá trị, những mặt hạn chế… với cái nhìn khoa học, lịch sử. Như vớiTứ thư không thể không biết đến quá trình hình thành văn bản, thời điểm xác lập Tứ thư… Với Kinh Thư không thể không biết đến vấn đề chân ngụy của văn bản, vấn đề Kim văn, Cổ văn… Với Kinh Lễ không thể bỏ qua những vấn đề cơ bản của Tam Lễ, sự thay đổi vị trí kinh điển từ Nghi lễ sang Lễ ký… Với Xuân Thu không thể không đề cập tới Tam truyện, sự khác nhau cơ bản giữa Tả truyện với Công Dương truyện và Cốc Lương truyện, về bút pháp Xuân Thu… Tiến tới nên có một chuyên đề về lịch sử kinh học nho gia hệ thống hóa các vấn đề đó.
Cũng rất cần thiết phải giới thiệu các tác phẩm kinh học hay có tính chất kinh học của Việt Nam. Số này tuy không nhiều nhưng cũng có những tác phẩm giá trị, đánh dấu thành tựu về kinh học của học giả Việt Nam như Thư kinh diễn nghĩa của Lê Quý Đôn, Xuân Thu quản kiến của Ngô Thì Nhậm, Luận ngữ ngu án của Phạm Nguyễn Du…
Nói chung là yêu cầu đặt ra cho công việc rất nhiều. Trước mắt, ngành cần hoàn thiện hệ thống bài giảng, xúc tiến xây dựng hệ thống giáo trình chuẩn về Tứ thư, Ngũ kinh cho bậc Đại học theo yêu cầu của ngành. Nhưng giáo trình cũng không phải là nhất thành bất biến, cần luôn được bổ sung, cập nhật. Nếu cần thiết phải rà soát lại chương trình, bố trí thời lượng cũng như tiến độ cho phù hợp.
Cuối cùng là vấn đề tư liệu. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng. Không thể học tốt nếu chỉ học chay, hay chỉ có một vài văn bản, bản dịch sơ lược. Cần có một hệ thống tư liệu phong phú, đặc biệt là các tư liệu gốc của Trung Quốc (cổ đại và hiện đại). Tình trạng chung của cả người dạy và người học là thiếu nguồn tư liệu, nhất là khó có điều kiện được tiếp xúc với các tư liệu mới nhất. Hiện nay, từ nhiều nguồn, kho tư liệu của Bộ môn bắt đầu được trang bị nhưng còn rất hạn chế, cần phải bổ sung nhiều. Muốn vậy cần có sự giúp đỡ của các cấp, các đơn vị.
Với một thời lượng có hạn mà nội dung cần dạy và học rất nhiều, rất khó, rất phức tạp, đây là một thách thức lớn. Mặc dù từng người đều hết sức mình vì công việc chung nhưng trong điều kiện còn nhiều hạn chế, những việc làm được kết quả có thể còn rất khiêm tốn, nhất là trong trình độ phát triển của khoa học hiện đại. Điều này ai cũng nhận thức được nhưng để khắc phục không phải chỉ trong một sớm một chiều, mà cần có sự chuẩn bị, cải thiện nhiều mặt.
Dạy kinh điển chỉ là một phần trong chương trình đào tạo ngành Hán Nôm bậc Đại học mà đã đặt ra biết bao vấn đề. Bài viết này chỉ nhằm bày tỏ những công việc mà ngành Hán Nôm - Khoa Văn học đã và đang làm cùng một vài ý kiến thiển cận của người viết - chỉ là “quản khuy lãi trắc”. Còn rất nhiều vấn đề sẽ được đặt ra và cần phải làm trong tương lai.

Đ.T.H

MỘT THẾ HỆ - MỘT CHẶNG ĐƯỜNG TIẾP CẬN DI SẢN HÁN NÔM

MỘT THẾ HỆ - MỘT CHẶNG ĐƯỜNG TIẾP CẬN DI SẢN HÁN NÔM
Vào đầu thập kỷ 70, giữa những năm tháng chiến tranh ác liệt, lúc đế quốc Mỹ đang leo thang bắn phá dữ dội miền Bắc xã hội chủ nghĩa lần thứ hai; dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hệ Cử nhân Hán Nôm chính qui đầu tiên trong hệ thống giáo dục nước nhà được thiết lập thuộc Bộ môn Hán Nôm, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Bộ môn Hán Nôm thời ấy chỉ có 4 giảng viên là các thầy: thầy Đinh Gia Khánh, thầy Lê Văn Quán, thầy Nguyễn Đình Thảng và thầy Trần Thuyết. Các thầy trong Bộ môn không thể đảm đương hết được chương trình giảng dạy, hơn nữa để tranh thủ kiến thức của các giáo sư đầu ngành về Hán Nôm học, Sử học, Ngôn ngữ học; nên Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn đã mời các giảng viên ở nơi khác tham gia giảng dạy, như: thầy Cao Xuân Huy, thầy Đỗ Ngọc Toại, thầy Nguyễn Tài Cẩn, thầy Hà Văn Tấn, thầy Phan Huy Lê, thầy Trần Quốc Vượng và thầy Trương Đình Nguyên.
Khóa sinh viên Hán Nôm đầu tiên được tuyển vào là năm 1972, khóa tiếp theo tuyển vào năm 1973. Về sau cứ cách một năm mới tuyển một khóa, mỗi khóa chỉ tuyển được hơn chục người. Những năm gần đây, việc tuyển sinh viên ngành Hán Nôm đã thường xuyên hơn và số lượng học sinh mỗi khóa cũng có vẻ đông hơn.
Sinh viên Hán Nôm những khóa đầu, ngoài các chương trình học chung với sinh viên ngành Văn học, Ngôn ngữ học (tuy nhiên cũng có giảm một vài môn); còn phải học một chương trình Hán Nôm khá nặng và phong phú. Gồm các sách cơ sở, như: Tam tự kinh, ấu học ngũ ngôn thi, Sơ học vấn tân, Luận ngữ chính văn tiểu đối, Minh tâm bảo giám, Minh đạo giáo huấn, Tứ thư (Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học, Trung dung), Ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Tả truyện), Chiến quốc sách, Tác gia và tác phẩm Hán Nôm Việt Nam tiêu biểu ở các thời kỳ lịch sử (Lý, Trần, Lê, Tây Sơn và Nguyễn); các chuyên đề cơ bản, như:Nguồn gốc và cấu tạo chữ Nôm, Văn bản học, Ngữ âm học lịch sử, Thư tịch học, v.v. Giáo trình giảng dạy hồi ấy thường là các bản viết tay, sau được in rônêô; hoặc các giáo án do các thầy soạn giảng và học sinh muốn ghi thế nào thì ghi.
Cuối khóa mỗi sinh viên bắt buộc phải làm luận văn tốt nghiệp dưới sự hướng dẫn của các thầy. Có thể coi đây là bài tập đầu tiên đem đến những kinh nghiệm cho những người làm công tác nghiên cứu khoa học sau này, đó là các khâu: từ việc sưu tầm tư liệu, đến đọc hiểu các tư liệu, rồi phân loại sắp xếp và xử lý hệ thống tư liệu, sau là tập viết theo kết cấu của một luận văn tốt nghiệp và văn phong khoa học chuyên ngành Hán Nôm.
Sau khi tốt nghiệp, những người may mắn có duyên phận với ngành Hán Nôm, thì được làm việc theo đúng ngành nghề đã đào tạo, còn nhiều người phải theo các nghề khác. Người đi dạy văn học cổ ở các trường đại học và trường văn hóa quân đội, người về dạy văn ở các trường phổ thông trung học, người đi làm cán bộ tuyên truyền văn hóa, thậm chí nhiều người đi làm những công việc trái với ngành nghề đã học. Chuyện học một nghề, khi ra trường có thể làm nhiều nghề, thể hiện sự thiếu qui hoạch của việc đào tạo bậc Đại học đã tồn tại từ lâu trong hệ thống giáo dục nước nhà.
Năm nay nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập ngành Hán Nôm của Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội); tôi mạn phép viết đôi lời về những người may mắn được Bộ môn Hán Nôm đào tạo, khi nhận công tác lại có duyên phận gắn với ngành mình đã chọn và đã học.
Những sinh viên Hán Nôm ra trường, sau khi nhận công tác và tiếp xúc với di sản Hán Nôm phong phú và đồ sộ mà ông cha để lại, có cảm giác choáng ngợp như đứng trước biển cả mênh mông. Thế rồi với chút kiến thức đã được trang bị trong nhà trường, có người đã dũng cảm nhảy ra bơi, có người rụt rè rồi cũng xuống bơi, có người phải chờ được dìu dắt và bây giờ cũng đã biết bơi trong cái biển kiến thức mênh mông ấy.
Trước hết, tôi nhắc tới anh Cao Tự Thanh, sau khi tốt nghiệp anh vào công tác tại phân Ban Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh, sau lại chuyển sang làm công tác văn hóa, bởi có một dạo, anh đã phụ trách Bảo tàng tỉnh Long An. Cứ nghĩ anh sẽ dùng tri thức Hán Nôm làm phương tiện cho hoạt động văn hóa, nhưng anh lại khá thành công trong cả hai lĩnh vực, đặc biệt là nghiên cứu Hán Nôm. Cùng lứa bạn học, anh là người đầu tiên cung cấp cho bạn đọc những công trình về văn hóa và di sản Hán Nôm ở Nam bộ, có thể kể như:Nguyễn Đình Chiểu với văn hóa Việt Nam (viết chung), 1983; Tác phẩm Nguyễn Thông (dịch chung), 1984; Nguyễn Hữu Huân, nhà yêu nước kiên cường, nhà thơ bất khuất (viết chung), 1986; Văn học Hán Nôm ở Gia Định, 1988; Quốc triều hương khoa lục (dịch chung với Nguyễn Thúy Nga và Nguyễn Thị Lâm), 1993; Thơ Trần Thiện Chánh, 1995; Giai thoại thơ Đường, 1995; Đại Nam liệt truyện tiền biên (dịch và giới thiệu), 1995; Nho giáo ở Gia Định, 1996; Nghiên bút mười năm, 1999; và nhiều bài viết đăng tải trên các tạp chí, báo khác...
Một số người về công tác ở Cục lưu trữ Nhà nước, đảm nhiệm việc thống kê phân loại, nghiên cứu và giới thiệu phông tư liệu viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, trong đó đáng lưu ý là Châu bản triều Nguyễn.Họ đã phấn đấu, học hỏi và làm việc hết mình, có người đã trở thành chuyên gia nghiên cứu về Châu bản triều Nguyễn ở Việt Nam. Tuy công tác ở ngành lưu trữ, nhưng vẫn không quên ngành học được đào tạo, họ đã vận dụng tri thức Hán Nôm của mình và kết hợp cùng các chuyên gia nghiên cứu để khai thác mảng tư liệu Hán Nôm hiện đang lưu giữ tại các kho. Những công trình nghiên cứu và giới thiệu tư liệu Hán Nôm thuộc Cục Lưu trữ Nhà nước lần lượt được công bố, có thể kể như: Thơ văn Đông Kinh nghĩa thục, Mục lục Châu bản triều Nguyễn (Võ Văn Sạch tham gia), Danh mục làng xã tỉnh Hà Nội cuối thế kỷ XIX (Trần Văn Viết), Cách thức lập Châu bản triều Nguyễn, Địa danh trong Châu bản triều Nguyễn (Nguyễn Văn Đường); v.v. cùng nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.
Kể tất cả các khóa có tới gần ba chục Cử nhân Hán Nôm về công tác ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia. Có người đã trải qua 25 năm trong ngành, có người mới được một vài năm; nhưng họ cùng có chung một nhiệm vụ là nghiên cứu, khai thác và giới thiệu di sản Hán Nôm. Các Cử nhân Hán Nôm về Viện Nghiên cứu Hán Nôm, được phân công về các phòng chuyên môn; với sự giúp đỡ của các bậc đàn anh, họ đã xác định cho mình phương hướng nghiên cứu chuyên sâu, để hướng tới trở thành những chuyên gia trong từng lĩnh vực nghiên cứu. Trải theo năm tháng, nhiều người đã cố gắng làm việc và có được những thành công:
Về nghiên cứu chữ Nôm, có một số người tham gia, họ đã say mê nghiên cứu các văn bản Nôm, nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt trong từng văn bản. Đến nay, họ thực sự trưởng thành trong lĩnh vực này và có những đóng góp nhất định, có thể nêu một số công trình, như: Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm “Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh” (Hoàng Thị Ngọ), Nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt qua văn bản “Thiên Nam ngữ lục” (Nguyễn Thị Lâm), Nghiên cứu mối tương ứng giữa âm Hán Việt và âm Nôm trong cách đọc chữ Nôm(Trương Đức Quả), Tân biên truyền kỳ mạn lục - Tác phẩm Nôm thế kỷ XVI (Hoàng Hồng Cẩm), v.v. cùng nhiều bài viết nghiên cứu, giới thiệu về chữ Nôm trên Tạp chí Hán Nôm cùng các tạp chí khác.
Về khảo cứu và giới thiệu công bố các tác phẩm và tác gia Hán Nôm, có khá nhiều người tham gia, và nhiều người đã biết cách khai thác theo những lĩnh vực mà mình chuyên sâu, nên có được những thành tựu nhất định. Có thể kể như: Nghiên cứu văn bản đăng khoa lục Việt Nam (Nguyễn Thuý Nga), Thơ văn Phạm Đình Hổ (Trần Kim Anh),Nghiên cứu về ấn triện Việt Nam (Nguyễn Công Việt), Nghiên cứu gia phả (Nguyễn Hữu Tưởng), Phương pháp làm sử của Lê Quý Đôn(Đinh Công Vỹ), Nghiên cứu văn bia Việt Nam (Trịnh Khắc Mạnh),Nghiên cứu văn bia xứ Kinh Bắc (Phạm Thị Vinh), Nghiên cứu văn bản thần tích (Nguyễn Hữu Mùi), Nghiên cứu ca trù (Nguyễn Xuân Diện), Thơ văn Phạm Hy Lượng (Cao Việt Anh), Việt điện u linh tập(Đào Phương Chi), Nghề khắc ván in ở Việt Nam (Nguyễn Thị Dương), Gia huấn (Lê Thu Hương), v.v.
Bên cạnh đó, nhiều người còn tham gia biên soạn các sách công cụ phục vụ việc tra cứu của chuyên ngành Hán Nôm nói riêng và khoa học xã hội chung, có thể kể như: Từ điển chữ Nôm (Hoàng Thị Ngọ, Trần Kim Anh, Trương Đức Quả và Nguyễn Thị Lâm tham gia), Các nhà khoa bảng Việt Nam (Nguyễn Thúy Nga và Nguyễn Hữu Mùi tham gia), Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam (Trịnh Khắc Mạnh), Đối chiếu chữ Hán thể triện thảo khải (Trịnh Khắc Mạnh đồng biên soạn), Bảng tra thần tích (Nguyễn Hữu Mùi tham gia),Trạng nguyên Tiến sĩ Hương cống Việt Nam (Cao Việt Anh tham gia),Lịch sử văn hóa Trung Quốc (Đào Phương Chi tham gia dịch), v.v.
Ngoài ra, nhiều người còn tham gia vào việc biên dịch những công trình Hán Nôm khác, ví dụ như: Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm, Thơ văn Lê Thánh Tông, Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, Hội Tao đàn, Thư tịch Hán Nôm về nghề nông cổ truyền, Gương mặt phụ nữ Việt Nam qua thư tịch Hán Nôm, Di văn chùa Dâu, Ô châu cận lục, Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tổng tập văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Thư mục văn bia Việt Nam, Bia Văn Miếu Hà Nội, Văn bia Lạng Sơn, Tục lệ Lạng Sơn, Văn bia Hà Tây, Văn học Hán Nôm Hà Tây, Ngữ văn Hán Nôm, Tổng tập văn học Việt Nam, Nhìn lại Hán Nôm học Việt Nam thế kỷ XX, Một thế kỷ sưu tầm văn hóa dân gianv.v. và hàng trăm bài nghiên cứu đăng tải trong các Kỷ yếu hội thảo khoa học và trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, như: Tạp chí Hán Nôm, Tạp chí Văn học, Nghiên cứu lịch sử, Khảo cổ học, v.v.
Để có được những thành tựu nêu trên, nhiều người đã gắng sức để làm việc và với một phương châm vừa làm vừa học; học thầy, học các bậc đàn anh và học bè bạn. Trong quá trình học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nhiều người đã biết kết hợp để thành đạt nơi trường qui bậc Sau đại học. Đến nay có 9 người nhận học vị Tiến sĩ, 6 Thạc sĩ và nhiều người đang theo học hệ NCS và Cao học trong số gần ba chục sinh viên Hán Nôm hiện đang công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Ba mươi năm đã trôi qua, Bộ môn Hán Nôm, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Khoa Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội) đã đào tạo nên một thế hệ cán bộ nghiên cứu Hán Nôm dưới chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều vui mừng nhất là, bên cạnh các bậc nghiên cứu Hán Nôm lão thành; nay có đội ngũ cán bộ kế cận với nhiều độ tuổi khác nhau, đầy nhiệt tình say mê với nghề, mong muốn được góp phần vào công cuộc bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Với phương châm phải học nhiều để nghiên cứu sâu, và với sự giúp đỡ của những người đồng nghiệp, tin tưởng rằng trong tương lai họ sẽ là những chuyên gia góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành Hán Nôm học Việt Nam thế kỷ XXI.

T.K.M