MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC GIẢNG DẠY
KINH ĐIỂN NHO GIA CHO NGÀNH HÁN NÔM BẬC ĐẠI HỌC
Hiện nay, trong chương trình đào tạo của ngành Hán Nôm tại Khoa Văn học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, thuộc về phần kiến thức cơ bản của ngành có ba bộ phận:KINH ĐIỂN NHO GIA CHO NGÀNH HÁN NÔM BẬC ĐẠI HỌC
1. Hán văn Trung Quốc.
2. Hán văn Việt Nam.
3. Chữ Nôm.
Trong đó, phần các văn bản kinh điển Nho gia là cốt lõi của bộ phận Hán văn Trung Quốc. Bài viết này đề cập đến một số vấn đề nhỏ xung quanh việc giảng dạy nhóm văn bản này.
Các kinh điển Nho gia, trước hết là những điển tịch tối cổ, là những tư liệu văn hiến gốc, kết tinh của văn hóa truyền thống Trung Hoa, nội dung vô cùng phong phú, bao quát nhiều mặt của văn hóa xã hội Trung Hoa thời thượng cổ. Đến khoảng đầu đời Hán, Nho thuật được độc tôn, những điển tịch hạt nhân của Nho gia này mới được tôn sùng, thần thánh hóa lên hàng kinh điển, với ý nghĩa là đạo lý vĩnh hằng, bất biến (cho dù trước đó, trong một số thư tịch Tiên Tần như Trang tử, Tuân tử, Mặc tử đã có cái tên “kinh”, nhưng chưa có ý nghĩa như thế). Cũng từ đó, trải hơn 2000 năm ở Trung Hoa, các kinh điển trở thành đối tượng học chính yếu, cũng là nấc thang để bước lên danh vọng của sĩ nhân. ảnh hưởng của nó dần dà lan rộng ra các vùng xung quanh như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam…, hình thành một khu vực đồng văn. Cái học lấy những kinh điển đó làm đối tượng gọi là Kinh học trở thành môn học thuật vào loại tôn quý bậc nhất trong học thuật Trung Hoa hàng ngàn năm.
Toàn bộ kinh điển Nho gia, từ Lục kinh (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu) ban đầu; rồi mất Kinh Nhạc còn Ngũ kinh, rồi tăng dầnThất kinh, Cửu kinh, Thập nhị kinh, cho đến thời Tống là Thập tam kinh, cả thảy có mười ba bộ, bao gồm: Chu Dịch, Thượng Thư, Mao Thi, Chu Lễ, Nghi Lễ, Lễ Ký, Xuân Thu Tả thị truyện, Xuân Thu Công Dương truyện, Xuân Thu Cốc Lương truyện, Luận ngữ, Hiếu kinh, Nhĩ nhã, Mạnh tử. Nhưng nói đến kinh điển Nho gia, người ta quen thuộc với Tứ thư Ngũ kinh hơn.
Tứ thư bao gồm Luận ngữ, Đại học, Trung dung, Mạnh tử, được xác lập vào đời Tống, mà người đầu tiên đặt tên là đại nho Chu Tử (Chu Hy). Chu Tử đã rút hai thiên Đại học và Trung dung trong Lễ ký ra hợp với Luận ngữ, Mạnh Tử rồi tiến hành chú giải, đặt tên cho tác phẩm của mình là Tứ thư chương cú tập chú. Cái tên Tứ thư ra đời từ đó.
Ngũ kinh vốn có từ đời Hán bao gồm Thi, Thư, Lễ (Nghi lễ), Dịch, Xuân Thu (chủ yếu là Công Dương truyện). (Hán Vũ Đế đã đặt Ngũ kinh Bác sĩ chuyên trị các kinh điển này). Nhưng Ngũ kinh phổ dụng hiện nay là được định hình vào đời Đường. Để thống nhất học thuật, Đường Thái Tông đã tiến hành chuẩn hóa kinh điển, giao cho Nhan Sư Cổ cố định về mặt văn bản gồm năm bộ, gọi là Ngũ kinh định bản, sau đó giao cho nhóm Khổng Dĩnh Đạt tiến hành sớ giải làm tiêu chuẩn về mặt nội dung, gọi là Ngũ kinh chính nghĩa, bao gồm: Chu Dịch, Thượng Thư, Mao Thi, Lễ ký, Xuân Thu (Tả thị truyện). Suốt mấy trăm năm đời Đường, Ngũ kinh chính nghĩa là tài liệu quan phương chính thống cho giáo dục và khoa cử. Tứ thư được chính thức đưa vào khoa cử từ đời Nguyên (lấy Tập chú của Chu Tử làm tiêu chuẩn), qua Minh, Thanh kiện toàn thêm một bước, vị trí của Tứ thư được đề cao, có phần vượt cả Ngũ kinh. Người học phải học thông Tứ thư trước rồi mới học đến Ngũ kinh. Từ đó, đề thi về kinh điển chỉ ra trong Tứ thư Ngũ kinh mà thôi. Trong khoa cử, kinh nghĩa luôn ở vị trí trường thứ nhất, là ngưỡng cửa tiến vào khoa cử. Nếu không vượt qua được cửa này, sĩ tử sẽ không vào được kỳ tiếp theo, có nghĩa là bị loại khỏi khoa cử. Nó được xem như thước đo học thức và tâm thuật của người học. Do vậy, trong “thập niên đăng hỏa”, đại bộ phận thời gian, tâm huyết dành cho “nấu sử sôi kinh”.
Ở Việt Nam, từ thời Lý, Nho học được xác lập với việc dựng Văn miếu, mở Quốc tử giám và bắt đầu mở các khoa thi Nho học. Khoa thi đầu tiên là Minh kinh bác sĩ, rồi thi Nho học ba trường, chọn những người thông Kinh Thi, Kinh Thư vào hầu ngự diên…Đến cuối Trần tiếp thu quy chế khoa cử đời Nguyên với bốn trường, về cơ bản đã định chế cho khoa cử sau này.Thời Lê sơ kiện toàn chế độ khoa cử theo mẫu mực triều Minh (định chế này tồn tại cho đến khi chấm dứt khoa cử). Trong nội dung thi, Tứ thư, Ngũ kinh là trung tâm, trường kinh nghĩa luôn luôn ở vị trí số một. Sĩ nhân Việt Nam không nằm ngoài quỹ đạo chung - kinh điển là đối tượng học trung tâm của họ. Những quy chế về khoa cử mặc nhiên sẽ quy định đường hướng cho việc giáo dục, học tập của toàn xã hội.
Nói như vậy để thấy rằng việc đưa phần văn bản kinh điển vào chương trình đào tạo Hán Nôm bậc Đại học hiện nay là rất đúng đắn vì nó hết sức cần thiết.
Cho dù trải thời gian, qua binh hỏa đã bị tán thất khá nhiều, chúng ta vẫn được thừa hưởng một số lượng thư tịch Hán Nôm khá lớn và rất phong phú của ông cha. Đó là kết tinh trí tuệ và tâm huyết của tiền nhân mà chúng ta có nhiệm vụ phải gìn giữ và khai thác. Đó là nhiệm vụ mà nhà nước giao cho ngành Hán Nôm nói chung, cũng là mục tiêu đào tạo của ngành Hán Nôm ở Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
Để có thể khai thác, tức là nghiên cứu những giá trị tiềm ẩn trong kho thư tịch Hán Nôm đồ sộ đó phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày nay, công việc trước tiên, và bắt buộc của người làm Hán Nôm là phải hiểu được văn bản, giải mã được văn bản, hay nói nôm na là phải “đọc thông mặt chữ”. Việc dịch và công bố ngày một nhiều các thư tịch trong di sản Hán Nôm cũng là một công việc trọng tâm của chuyên ngành. Có giải quyết tốt được công việc này mới có thể tiến hành những bước nghiên cứu tiếp theo. Không thể có kết quả nghiên cứu tốt nếu như văn bản chưa được hiểu một cách chính xác. Đây là công việc không hề đơn giản, không phải chỉ biết nhiều chữ, nắm được văn pháp cơ bản là có thể đọc được, hiểu được tất cả các văn bản, nhiều khi đọc thông từ đầu đến cuối mà không thể dịch nổi một văn bản cổ. Nó đòi hỏi nhiều kiến thức khác mà người làm Hán Nôm cần trang bị. Đây là công việc lâu dài, thường xuyên liên tục, việc của cả một đời người chứ không phải chỉ trong mấy năm ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng, trong thời gian học ở trường, người học được trang bị một vốn kiến thức cơ bản nhất. Sau này tùy theo công việc mà người cán bộ phải trang bị thêm những kiến thức chuyên môn phục vụ cho công việc cụ thể của mình. Kinh điển chính là một trong những phần kiến thức cơ bản mà người làm Hán Nôm không thể không trang bị, dù ít dù nhiều - mà học ở trường là thời gian thuận lợi để làm việc đó.
Có thể nói rằng, đại bộ phận tác giả của các văn bản Hán Nôm là các nhà nho. Dù đỗ đạt hay không thì cái mà họ được hun đúc, đào tạo từ ban đầu là nho học, là kinh điển. Họ sống trong môi trường nho giáo, trước tác theo tinh thần nho học. “Văn hiến thiên niên quốc” mà chúng ta tự hào chính là từ ở đó. Những nội dung đạo lý cũng như chữ nghĩa của kinh điển đối với họ đã quá nhuần nhuyễn, đến mức dường như đã trở thành cái gì đó máu thịt trong họ. Khi viết, nó sẽ tuôn trào ra đầu ngọn bút một cách tự nhiên. Hơn nữa, quan niệm của người xưa là dùng văn chương để mà chở đạo, học theo thánh hiền, viết theo cổ nhân, “dĩ thánh hiền lập ngôn”. Khi cần viết về một vấn đề gì đó, họ sẽ tìm ra trong điển tịch xưa những điểm tương đồng, rồi dùng những từ ngữ, thậm chí từng đoạn trong kinh điển, trong tử, sử, cổ thư để viết ra, có như vậy mới là uyên thâm, điển nhã. Dẫn dụng được nhiều chữ nghĩa trong kinh điển, trong sách cổ, dùng được nhiều điển cố chính là thể hiện mức độ uyên bác, hay chữ, văn tài của tác giả. Điều này sẽ càng đậm đặc hơn nếu tác giả của các văn bản ấy là bậc đại khoa, danh sĩ, hay ở trong các văn bản quan phương chính thống như văn hành chính, nghi thức nhà nước và văn chương khoa cử. Tùy theo nội dung mà cách viết, trưng dẫn khác nhau, như văn hành chính sẽ chịu nhiều ảnh hưởng của Kinh Thư... Do vậy, để hiểu được, để dịch được chính xác văn bản thì trong một chừng mực nào đó, người làm Hán Nôm phải đằm mình vào văn hóa cổ, ít nhiều phải được học những cái mà cổ nhân ngày xưa đã học. Khó có thể hiểu được một cách đúng đắn và sâu sắc những câu dù chỉ vài chữ như “Trung hòa vị dục” ở trước điện Thái Hòa trong Đại nội Huế, như “Thể vật bất di”, “Thận chung truy viễn”trong một ngôi miếu, một ngôi từ đường ở một thôn quê… nếu như chỉ dựa đơn thuần trên mặt chữ mà chưa từng đọc những sách Trung dung, Luận ngữ… Không ít trường hợp đã dịch sai, hiểu sai vì chỉ dựa trên từ ngữ thông thường mà không biết nó vốn nằm trong kinh điển mang những nghĩa đặc thù …
Vậy là ở ngành Hán Nôm, học kinh điển không có nghĩa là phục hồi Nho học, mà học để phục vụ cho công việc chuyên môn mà người học sẽ phải đảm nhiệm khi ra công tác sau này. Việc dạy kinh điển cũng phải khác, bằng phương pháp mới, với cách tiếp cận mới trong điều kiện hiện đại, phần nào có chọn lọc tiếp thu nhưng không phải rập khuôn cách thức truyền dạy của cổ nhân.
Theo tôi, học kinh điển ở ngành Hán Nôm bậc Đại học trước hết nhằm hai mục đích:
Thứ nhất, qua việc học kinh điển, người học được tăng cường về mặt chữ nghĩa, được bổ sung vốn từ, văn pháp, các mẫu câu, danh cú…Kinh điển Nho gia là một trong những chuẩn mực của văn ngôn, thứ ngôn ngữ viết mà đại bộ phận các tác gia lịch đại dùng để viết. Nó có tác dụng trực tiếp cho việc giải mã các văn bản.
Thứ hai, qua việc học, người học dần thâm nhập vào nho học từ gốc rễ với một loạt những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất. Đây là một lợi thế làm cơ sở để người học tiếp tục được hệ thống hóa, mở rộng và phát triển qua các chuyên đề về nho giáo, về giáo dục khoa cử… sẽ học ở thời gian tiếp theo, bổ sung kiến thức văn hóa nền cho người làm Hán Nôm.
Từ đó đặt ra một loạt vấn đề cho việc dạy, như sẽ phải chọn lựa như thế nào? giảng vào phần nào? với cách thức ra sao ?
Các kinh điển Nho gia có dung lượng khá lớn, nội dung bao quát nhiều vấn đề, chữ nghĩa cổ áo. Các trước tác liên quan đến kinh điển ở Trung Quốc vô cùng lớn (riêng nó tạo thành một bộ phận - bộ phận đứng đầu trong bốn bộ phận của thư mục cổ Trung Hoa: kinh, sử, tử, tập). Thời lượng dạy toàn bộ Tứ thư, Ngũ kinh trong chương trình đào tạo Hán Nôm bậc Đại học của ngành Hán Nôm là 25 đơn vị học trình (tương đương với 375 tiết), cũng là đáng kể so với chương trình đào tạo của chuyên ngành chỉ có 5 học kỳ nhưng để dạy kinh điển thì lại là thời lượng rất khiêm tốn. Do vậy, một số sách có dung lượng nhỏ như Đại học, Trung dung có thể dạy toàn bộ, còn lại đều phải trích giảng. Như vậy phải chọn lựa đưa phần nào vào chương trình, cần phải có tiêu chí cụ thể. Mỗi kinh chỉ có thể trích giảng một số thiên quan trọng nhất, có giá trị cao về mặt nội dung, đặc biệt là có ảnh hưởng lớn đến trước tác của các tác gia. Ví dụ Kinh Dịch không thể không học quẻ Càn, quẻKhôn… Kinh Thư không thể không học Nghiêu điển, Thuấn điển, Đại Vũ mô, Hồng phạm… Kinh Lễ không thể bỏ qua Lễ vận, Nhạc ký… Có khi trong một thiên dài chỉ trích tuyển phần cơ bản nhất.
Về nội dung, đọc kinh điển nhất định phải sử dụng các bản chú giải- nhưng từ xưa đến nay, những loại tác phẩm chú dịch kinh điển như giải hỗ, chương cú, truyện, chú, sớ, tiên, thích, chính nghĩa, tập chú, tập truyện, tập thuyết, dịch chú, kim chú kim dịch, toàn dịch… nhiều không kể xiết, ý kiến của các nhà lại rất khác nhau, thậm chí chống nhau. Vậy nên chọn lựa thế nào, lấy bản nào làm nền ? Tiếp thu thêm ở đâu ?
Xuất phát từ mục tiêu sinh viên Hán Nôm học kinh điển là để phục vụ cho công việc chuyên môn là dịch, nghiên cứu di sản Hán Nôm chứ không phải học kinh điển để làm kinh học hay để chuyên nghiên cứu kinh điển (có thể có một bộ phận rất nhỏ sẽ đi theo hướng này, nhưng chắc chắn không nhiều). Vì vậy cần phải chọn lựa cái gì là cần thiết nhất, thích hợp với đối tượng học. Việc này cần có sự cân nhắc rất kỹ. Trước hết cần phải ưu tiên hệ thống sách kinh điển chính thống quan phương mà người xưa dùng làm tiêu chuẩn cho giáo dục và khoa cử. ảnh hưởng của kinh điển trong thư tịch Hán Nôm chính là theo tiêu chuẩn này, cách hiểu này.
Như mọi người đều biết, ở nước ta, Nho giáo đến thời Lê Thánh Tông đã lên đến vị trí độc tôn, chế độ khoa cử cũng được kiện toàn đạt đến chuẩn mực nhất ở thời này, đời sau về cơ bản là không có thay đổi gì lớn. Hệ thống kinh điển dùng làm tiêu chuẩn cho giáo dục và khoa cử là hệ thống sách Đại toàn của nhà Minh được ban hành vào niên hiệu Vĩnh Lạc thời Minh Thành Tổ. Tứ thư đại toàn và Ngũ kinh đại toàncủa nhà Minh thực chất không có thành tựu gì lớn về mặt kinh học mà về cơ bản chỉ là tiếp nhận và phát huy cái học nghĩa lý của kinh học thời Tống. Cụ thể như sau:
- Tứ thư lấy Tập chú của Chu Hy làm chủ.
- Kinh Dịch lấy Dịch truyện của Trình Di và Bản nghĩa của Chu Hy làm chủ.
- Kinh Thư lấy Tập truyện của Sái Thẩm (học trò của Chu Hy) làm chủ.
- Kinh Thi lấy Tập truyện của Chu Hy làm chủ.
- Kinh Lễ lấy Tập thuyết của Trần Hạo (đời Nguyên) làm chủ.
- Kinh Xuân Thu lấy Truyện của Hồ An Quốc (đời Tống) làm chủ.
Hệ thống sách Đại toàn này được dùng làm tiêu chuẩn cho giáo dục và thi cử suốt các đời Minh, Thanh của Trung Quốc và Lê, Nguyễn của Việt Nam.
Do vậy, nó là tài liệu giáo khoa bắt buộc của sĩ nhân, có tính chính thống, ảnh hưởng cực sâu rộng. Nhà Nho học theo sách ấy, với cách hiểu ấy, thi theo nội dung ấy và chấm thi lấy đỗ theo tiêu chuẩn ấy. Lẽ dĩ nhiên, ảnh hưởng của kinh điển trong các trước tác của họ cũng theo nội dung ấy. Ví dụ câu “Công hồ dị đoan, tư hại giã dĩ” trong Luận ngữ xưa nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng cách giải thích“công hồ dị đoan” nghĩa là “chuyên chủ vào dị đoan” trong Tập chúcủa Chu Tử được xem là phổ biến nhất trong các thư tịch.
Vì vậy chương trình dạy kinh điển cho ngành Hán Nôm ở bậc Đại học ưu tiên chọn văn bản trong hệ thống này làm nền để giảng dạy. Cũng cần phải nói thêm rằng, các bản chú kinh theo tinh thần Tống học được đánh giá là giản minh, tinh xác, chú trọng cả về mặt huấn hỗ và mặt nghĩa lý, trong khi chú theo Hán học thì thiên về danh vật huấn hỗ, theo Thanh học thì thiên về khảo chứng, rất nặng nề, không phù hợp trong điều kiện dạy thời gian ngắn (chỉ cần so sánh Thư tập truyện của Sái Thẩm đời Tống với Thượng thư chính nghĩa của nhóm Khổng Dĩnh Đạt đời Đường và Thượng Thư kim cổ văn chú sớ của Tôn Tinh Diễn đời Thanh thì thấy ngay). Tất nhiên trong quá trình giảng dạy cần phải cung cấp cho người học những thông tin mới, những cách giải thích khác để đối chiếu, phân tích, đặc biệt là ý kiến của các học giả lớn thời cận hiện đại với những luận cứ khoa học có giá trị. Nhiều khi có thể dùng cách thức “ tập chú” để cho người học suy nghĩ và có kiến giải riêng. Nhưng có một điều khó là trong chương trình, Tứ thư được bố trí dạy ngay từ học kỳ đầu khi sinh viên bước vào chuyên ngành,vốn chữ Hán còn rất hạn chế, sinh viên khó có thể tiếp thu được những gì quá khó, quá sâu, vì họ chưa được chuẩn bị. Vì thế, dạy kinh điển ở bậc Đại học trước hết cần ưu tiên chú trọng vào những nội dung đã tương đối phổ biến và ổn định. Còn những vấn đề chuyên sâu và khó, những quan điểm mới nhất, những hướng nghiên cứu hiện đại, những vấn đề “kinh nghi” hóc búa…thì nên dành cho các chuyên đề ở bậc Cao học. Chương trình Cao học Hán Nôm cũng có các chuyên đề về Tứ thư Ngũ kinh. Ví dụ dạy Tứ thư ở bậc Đại học về cơ bản nên lấy Tập chú của Chu Tử làm nền, còn lên bậc Cao học, cũng là Tứ thưnhưng sẽ dạy theo cách thức khác, sâu hơn, rộng hơn, hệ thống hơn…
Thông qua các văn bản kinh điển để dạy trước hết là về chữ, về các kết cấu ngữ pháp… Nhưng dạy kinh điển không thể chỉ dừng lại ở bề mặt chữ nghĩa, dịch xuôi một cách hời hợt mà phải phát huy, cho người học lĩnh hội được những nghĩa lý sâu sắc hàm chứa trong đó. Có thế mới thấy được giá trị của các thư tịch được tôn lên hàng kinh điển, người học mới hiểu được sâu sắc và mới có thể sử dụng hữu hiệu vào các công việc chuyên môn cụ thể sau này được. Ví dụ chỉ một câu “Tự thành minh vị chi tính, tự minh thành vị chi giáo, thành tắc minh hỹ, minh tắc thành hỹ” trong Trung dung, nếu chỉ dịch ra thôi thì không có gì khó khăn nhưng sẽ rất mơ hồ, cần phải làm rõ thế nào là Thành ? Thế nào là Minh ? Thế nào là Tự thành minh ? Thế nào là Tự minh thành ? Tại sao lại gọi là Tính, gọi là Giáo ?... Hay câu “Trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn” trong Luận ngữ nếu chỉ dịch theo mặt chữ là “người trí thích nước, người nhân thích núi” thì không có gì là sâu sắc cả, cần phải làm sáng tỏ những nghĩa lý sâu sắc hàm chứa trong những câu chữ đơn giản như vậy. Đó là cái khó của việc dạy kinh điển.
Sinh viên Hán Nôm học kinh điển là những người hiện đại tiếp cận với một dạng văn bản bằng phương pháp khoa học. Do vậy cần phải trình bày với phương pháp khoa học. Dù là sơ đẳng, từng kinh điển cũng phải khái quát về các mặt văn bản, tác giả, quá trình truyền thụ, những giá trị, những mặt hạn chế… với cái nhìn khoa học, lịch sử. Như vớiTứ thư không thể không biết đến quá trình hình thành văn bản, thời điểm xác lập Tứ thư… Với Kinh Thư không thể không biết đến vấn đề chân ngụy của văn bản, vấn đề Kim văn, Cổ văn… Với Kinh Lễ không thể bỏ qua những vấn đề cơ bản của Tam Lễ, sự thay đổi vị trí kinh điển từ Nghi lễ sang Lễ ký… Với Xuân Thu không thể không đề cập tới Tam truyện, sự khác nhau cơ bản giữa Tả truyện với Công Dương truyện và Cốc Lương truyện, về bút pháp Xuân Thu… Tiến tới nên có một chuyên đề về lịch sử kinh học nho gia hệ thống hóa các vấn đề đó.
Cũng rất cần thiết phải giới thiệu các tác phẩm kinh học hay có tính chất kinh học của Việt Nam. Số này tuy không nhiều nhưng cũng có những tác phẩm giá trị, đánh dấu thành tựu về kinh học của học giả Việt Nam như Thư kinh diễn nghĩa của Lê Quý Đôn, Xuân Thu quản kiến của Ngô Thì Nhậm, Luận ngữ ngu án của Phạm Nguyễn Du…
Nói chung là yêu cầu đặt ra cho công việc rất nhiều. Trước mắt, ngành cần hoàn thiện hệ thống bài giảng, xúc tiến xây dựng hệ thống giáo trình chuẩn về Tứ thư, Ngũ kinh cho bậc Đại học theo yêu cầu của ngành. Nhưng giáo trình cũng không phải là nhất thành bất biến, cần luôn được bổ sung, cập nhật. Nếu cần thiết phải rà soát lại chương trình, bố trí thời lượng cũng như tiến độ cho phù hợp.
Cuối cùng là vấn đề tư liệu. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng. Không thể học tốt nếu chỉ học chay, hay chỉ có một vài văn bản, bản dịch sơ lược. Cần có một hệ thống tư liệu phong phú, đặc biệt là các tư liệu gốc của Trung Quốc (cổ đại và hiện đại). Tình trạng chung của cả người dạy và người học là thiếu nguồn tư liệu, nhất là khó có điều kiện được tiếp xúc với các tư liệu mới nhất. Hiện nay, từ nhiều nguồn, kho tư liệu của Bộ môn bắt đầu được trang bị nhưng còn rất hạn chế, cần phải bổ sung nhiều. Muốn vậy cần có sự giúp đỡ của các cấp, các đơn vị.
Với một thời lượng có hạn mà nội dung cần dạy và học rất nhiều, rất khó, rất phức tạp, đây là một thách thức lớn. Mặc dù từng người đều hết sức mình vì công việc chung nhưng trong điều kiện còn nhiều hạn chế, những việc làm được kết quả có thể còn rất khiêm tốn, nhất là trong trình độ phát triển của khoa học hiện đại. Điều này ai cũng nhận thức được nhưng để khắc phục không phải chỉ trong một sớm một chiều, mà cần có sự chuẩn bị, cải thiện nhiều mặt.
Dạy kinh điển chỉ là một phần trong chương trình đào tạo ngành Hán Nôm bậc Đại học mà đã đặt ra biết bao vấn đề. Bài viết này chỉ nhằm bày tỏ những công việc mà ngành Hán Nôm - Khoa Văn học đã và đang làm cùng một vài ý kiến thiển cận của người viết - chỉ là “quản khuy lãi trắc”. Còn rất nhiều vấn đề sẽ được đặt ra và cần phải làm trong tương lai.
Đ.T.H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét