1. Thơ ca đời Đường
Đời Đường là một triều đại quan trọng trong lịch sử Trung Quốc, thời kỳ này kinh tế phồn vinh, xã hội ổn định, văn hóa nghệ thuật thu được thành tựu huy hoàng, nhất là thơ ca cổ điển Trung Quốc ở vào thời kỳ phát triển cực thịnh. Sáng tác thơ ca trở thành một trong những nội dung chủ yếu trong hoạt động văn hóa xã hội ở đời Đường, nội dung thi khoa cử của triều đình cũng thay đổi từ thi viết luận văn thành thi viết thơ phú. Trong cuốn sách văn học “Toàn Đường Thi” lưu truyền đến bây giờ, có gần 50 nghìn bài thơ của hơn 2300 nhà thơ.
Thời kỳ phát triển của thơ ca đời Đường có thể chia thành bốn giai đoạn là thời kỳ đầu đời Đường, thời kỳ phồn vinh đời Đường, thời kỳ giữa đời Đường và thời kỳ cuối đời Đường.
Trong thời kỳ đầu đời Đường (618-712), nhà thơ Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương được gọi là “Tứ Kiệt” đầu đời Đường dần dần hoàn thành quá trình âm luật hoá thơ ca, đặt nền móng cho hình thức Luật Thơ trong thơ ca Trung Quốc, khiến thơ ca đời Đường thể hiện diện mạo của riêng mình. Dưới sự nỗ lực của họ, đề tài thơ ca thay đổi từ nội dụng cuộc sống xa xỉ của cung đình đến cuộc sống nhân dân xã hội, phong cách của thơ ca cũng thay đổi từ mềm yếu đến dễ hiểu lưu loát và tươi mát. Ông Trần Tử Ngang là nhà thơ xuất sắc nhất trong thời kỳ đầu đời Đường, ông chủ trương khôi phục truyền thống tốt đẹp phản ánh cuộc sống hiện thực của thơ ca. Thơ của Trần Tử Ngang có sức mạnh, phong cách chất phác, đã mở rộng con đường phát triển cho thơ ca đời Đường.
Từ năm 712 đến năm 762 công nguyên được gọi là thời kỳ phần vinh đời Đường, thời kỳ này là thời kỳ thơ ca phát triển phồn vinh nhất và giành được thành tựu cao nhất. Thơ ca trong thời kỳ phồn vinh đời Đường có đề tài phong phú, phong cách đa dạng, có nhà thơ ca ngợi tự nhiên, có nhà thơ hướng về biên giới, có nhà thơ khen ngợi chủ nghĩa anh hùng, có nhà thơ thở dài vì ngã lòng... Đông đảo nhà thơ sáng tác tự do trong bầu không khí lãng mạn, họ cùng tạo ra “Quang cảnh thời kỳ phồn vinh đời Đường” chấn động đời sau.
Trong thời kỳ phồn vinh đời Đường có các nhà thơ nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Cao Thích, Sầm Sâm v.v. Nhà thơ Sầm Sâm giỏi về viết thơ với đề tài biên giới, thơ của nhà thơ Cao Thích phản ánh nỗi đau khổ của dân gian. “Thi Tiên” Lý Bạch và “Thi Thánh” Đỗ Phủ là hai nhà thơ lớn có thể đại diện giới nhà thơ trong thời kỳ phồn vinh đời Đường. Thơ ca của Lý Bạch và Đỗ Phủ ảnh hưởng sâu xa tới sự sáng tác thơ ca trong đời sau Trung Quốc.
Trong thời kỳ giữa đời Đường (762-827), nhà thơ Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn và Lý Hạ là nhà thơ tiêu biểu nhất. Nhà thơ Bạch Cư Dị giỏi về viết thơ châm biếm, ông châm biếm hành vi bóc lột nhân dân một cách tàn khốc, phản đối hiếu chiến, chỉ trích bọn quyền quý phú hào, ngoài ra, nhà thơ Bạch Cư Dị cố gắng khiến câu thơ của mình dễ hiểu hơn, lưu loát hơn, ngôn ngữ sinh động và có sức truyền cảm, cho nên thơ của Bạch Cư Dịch được đông đảo độc giả ưa thích.
Nhà thơ Lý Hạ chết yểu, khi chết mới hai mươi mấy tuổi. Ông sống nghèo túng, con đường làm quan không thuận lợi, nhưng thơ của ông có sức tưởng tượng phong phú, ý thơ mới mẻ, từ ngữ lạ lùng, mang đậm màu sắc chủ nghĩa lãng mạn, khuynh hướng duy mỹ và tình cảm thương cảm.
Từ năm 827 đến năm 859 công nguyên là thời kỳ cuối đời Đường, là thời đại nhà thơ Lý Thương Ẩn và Đỗ Mục sáng tác nhiều. Thơ của Đỗ Mục dung hợp phong cách tươi mát và lạnh nhạt, rất thích hợp bày tỏ hoài bão chính trị của ông trong thơ. Nhà thơ Lý Thương Ẩn dùng kết cấu tinh xảo, ngôn ngữ lạ lùng, phong cách buồn bã xót xa để thể hiện những trắc trở mà mình trải qua trên con đường làm quan, cho nên thơ của Lý Thương Ẩn thường lộ rõ tình cảm thương cảm. Bài thơ “Vô Đề” nổi tiếng của Lý Thương Ẩn là viết về tình yêu hay là viết về chính trị, cho đến nay giới bình luận thơ ca Trung Quốc vẫn còn tranh chấp.
2. " Thi Thánh" Đỗ Phủ và thơ của ông

Đỗ Phủ sinh vào năm 712 công nguyên, là cháu của nhà thơ nổi tiếng Đỗ Thẩm Ngôn. Từ thuở nhỏ Đỗ Phủ đã rất thông minh, và chịu khó học tập, hơn nữa gia đình có bầu không khí văn hóa nồng nàn, lúc 7 tuổi, ông đã biết viết thơ, sau khi trưởng thành ông thông thạo thư pháp, hội họa, âm nhạc, cưỡi ngựa và chơi gươm. Lúc thanh niên, Đỗ Phủ cho rằng mình có tài ba lỗi lạc và chí hướng to lớn, năm 19 tuổi, ông bắt đầu vân du thiên hạ, sống cuộc sống lãng mạn, ăn chơi lông bông. Quãng thời gian đó chính là thời kỳ phồn vinh nhất của đời Đường, Đỗ Phủ thăm nhiều danh lam thắng cảnh, kiến thức ngày càng rộng lớn, viết ra câu thơ nổi tiếng hàng nghìn năm là “Hội đương lăng tuyệt đỉnh, nhất lãm chúng sơn tiểu”.
Giống như nhiều nhà văn khác, Đỗ Phủ cũng mong đi lên con đường làm quan, ông không ngừng làm thơ tham gia hoạt động xã giao với quyền quý, tham gia thi khoa cử, nhưng bị thất bại nhiều lần. Lúc trung niên, Đỗ Phủ sống cuộc sống nghèo khó ở Trường An, thủ đô nhà Đường, ông tận mắt nhìn thấy tình hình kẻ quyền quý ăn chơi xa xỉ và cảnh thê thảm người nghèo chịu rét chết đói trên đường phố, ông viết ra lời răn “Chu môn tửu nhục xú, lộ hữu đống tử cốt”. Trải qua sự ngã lòng trầm luân trên con đường làm quan và cuộc sống đói rét khổ cực, Đỗ Phủ nhận thức sự hủ bại của kẻ thống trị và nỗi đau khổ của nhân dân, khiến ông dần dần trở thành một nhà thơ lo việc nước lo việc dân.
Năm 755 công nguyên, Đỗ Phủ 43 tuổi được nhậm một chức quan, nhưng một tháng sau, đời Đường xẩy ra phiến loạn chiến tranh, sau đó, phiến loạn chiến tranh xẩy ra không ngừng. Trong thời kỳ này, Đỗ Phủ trôi giạt đó đây, trải qua nhiều gian nan, có nhận thức tỉnh táo hơn đối với hiện thực. Ông viết ra các bài thơ nổi tiếng như “Thạch Hào Lại”, “Đồng Quan Lại”, “Tân An Lại”, “Tân Hôn Biệt”, “Thùy Lão Biệt” và “Vô Gia Biệt”, bày tỏ lòng đồng tình sâu sắc đối với nhân dân và phẫn nộ đối với chiến tranh của nhà thơ.
Năm 759 công nguyên, Đỗ Phủ thất vọng triệt để đối với chính trị, từ quan về vườn. Lúc bấy giờ, Trường An đang bị hạn hán, Đỗ Phủ nghèo đến nỗi không thể sống nổi, bèn dẫn người nhà lưu vong đến Thành Đô ở miền tây nam Trung Quốc. Được sự cứu tế của bạn bè, Đỗ Phủ sống cuộc sống ở ẩn 4 năm. Trong tình hình nghèo khó, Đỗ Phủ viết ra bài thơ “Lều tranh bị cơn gió mùa thu phá hoại”, miêu tả hoàn cảnh khốn khổ của cả gia đình, và từ từng trải thiết thân của mình nghĩ đến cảnh ngộ của người khác, khát khao có hàng chục triệu căn nhà để giúp mọi người nghèo chịu rét chịu đói trong thiên hạ được thoát khỏi nỗi đau khổ, thậm chí ông muốn hy sinh cá nhân để đổi lấy nụ cười của mọi người nghèo trong thiên hạ. Bài thơ có tình cảm sâu thẳm, thể hiện tinh thần cao cả của nhà thơ.
Năm 770 công nguyên, Đỗ Phủ 59 tuổi mất trên đường lưu vong bởi bần cùng và bệnh tật. Đỗ Phủ để lại hơn 1400 bài thơ, phản ánh sâu sắc, toàn diện diện mạo xã hội nhà Đường trong hơn 20 năm phiến loạn chiến tranh, từ thời kỳ phồn vinh đến thời kỳ suy sụp, áng văn hoành tráng như sử thi. Thơ của Đỗ Phủ có kết cấu đa dạng, ông học tập ưu điểm của người khác, dung hợp hình thức kể chuyện, ký sự, trữ tình và bình luận, thơ có nội dung sâu rộng, tình cảm chân thành nồng nàn; về mặt nghệ thuật, ông không những thu góp lại cái hay của thơ ca cổ điển, mà còn sáng tạo và phát triển, đã mở rộng lĩnh vực thơ ca về mặt nội dung và hình thức, ảnh hưởng sâu rộng tới đời sau.
3. " Thi Tiên " Lý Bạch và thơ của ông

Lý Bạch (701-762) nguyên quán tỉnh Cam Túc hiện nay, gia thế và nơi sinh ra của ông vẫn là một bí ẩn. Từ thơ ca của Lý Bạch, chúng ta có thể biết, gia đình ông giàu có và có bầu không khí văn hóa, thuở nhỏ ông đọc nhiều sách, ngoài đọc sách ra, ông còn giỏi về chơi gươm. Từ lúc 20 tuổi, nhằm tăng thêm kiến thức, Lý Bạch đến các nơi du lịch. Vì ông có kiến thức uyên bác, có tài năng và trí tuệ xuất sắc, cho nên ông có thành tựu xuất sắc về mặt thơ ca. Dù lúc đó ngành ấn loát và giao thông kém phát triển lắm, nhưng thông qua hình thức tặng thơ cho nhau và giao lưu giữa nhà văn, Lý Bạch tuy trẻ nhưng đã rất nổi tiếng.
Học tri thức, thi khoa cử đi lên con đường làm quan là sự theo đuổi nhất quán của trí thức cổ đại Trung Quốc. Lý Bạch trẻ tuổi cũng rất mong làm nên những gì trên con đường làm quan, nên ông đến thủ đô Trường An. Do tiếng tăm viết thơ của ông và sự giới thiệu của những người nổi tiếng, năm 742, Lý Bạch nhậm chức Hàn Lâm ở Hoàng Cung. Thời kỳ này là thời kỳ đắc chí nhất cả cuộc đời của ông.
Lý Bạch tính tình kiêu căng, không hài lòng về bầu không khí hủ bại ở quan trường, mong được nhà vua trọng dụng, để có cơ hội thể hiện tài năng chính trị của mình. Nhưng, nhà vua lúc đó chỉ coi ông là một nhà thơ ngự dụng. Hơn nữa những kẻ quyền quý ở cung đình nói xấu ông, khiến nhà vua không tin ở ông nữa. Với nỗi thất vọng đối với triều đình, Lý Bạch rời khỏi thủ đô Trường An, một lần nữa sống cuộc sống vân du như câu thờ “Lang thang trên thiên hạ, viết thơ, uống rượu, sống thoải mái”.
Đa số thời gian trong cả cuộc đời của Lý Bạch trôi qua trong hành trình du lịch, trong thời gian đó ông viết rất nhiều thơ miêu tả phong cảnh tự nhiên. Trong các câu thơ “Thục đạo chi nan, nan vu thượng thanh thiên” (“Thục Đạo Nan”), “Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi” (“Tướng Tiến Tửu”), “Phi lưu trực hạ tam thiên thước, nghi thị ngân hà lạc cửu thiên” (“Nhìn thác Lư Sơn”), Lý Bạch áp dụng nhiều thư pháp khoa trương và ví dụ sinh động, khiến những câu thơ nói trên trở thành câu thơ được truyền tụng hàng nghìn năm.
Lý Bạch để lại hơn 900 bài thơ cho đến bây giờ, ngoài ra còn có hơn 60 bài văn xuôi. Với sức tưởng tượng lạ lùng và khí phách hoành tráng, thơ của Lý Bạch hấp dẫn mọi người, ảnh hưởng sâu xa tới đời sau, Lý Bạch được đời sau gọi là “Thi Tiên”.
4. Đào Uyên Minh- nhà thơ điền viên

Ông cố nội Đào Khản của Đào Uyên Minh là người lập công dựng nước Đông Tấn, ông nội và bố của Đào Uyên Minh đều từng làm quan, lúc Đào Uyên Minh 8 tuổi, bố ông qua đời, cảnh nhà dần dần suy sụp. Trong thời kỳ thiếu niên, Đào Uyên Minh từng mong mình có thể làm quan, làm nên những gì trong lĩnh vực chính trị.
Nhưng, thời kỳ đời Đông Tấn là một thời kỳ xã hội bấp bênh, cuộc đấu tranh tôn thất xẩy ra không ngừng, triều chính hủ bại, năm 29 tuổi, Đào Uyên Minh lần đầu tiên làm quan, không lâu, Đào Uyên Minh tính tình thật thà không thể chịu nổi sự hủ bại ở quan trường, bèn về nhà ở ẩn. Sau đó, bởi sức ép cuộc sống, Đào Uyên Minh làm quan nhỏ mấy lần, nhưng rút cuộc cũng về nhà ở ẩn.
Sau đó, Đào Uyên Minh ngày càng bần cùng, sống bằng cày cấy làm ruộng, nhưng vẫn không thể nuôi sống cả gia đình, lúc 41 tuổi, ông đành phải một lần nữa tìm việc làm ở quan phủ, và làm Tri Huyện Bành Trách. Vì Đào Uyên Minh ngày thường coi khinh công danh phú quý, không chịu nịnh kẻ quyền quý , nên ông làm tri huyện chỉ 80 mấy ngày đã từ chức về nhà. Từ đó, Đào Uyên Minh không làm quan nữa, ở ẩn và sống bằng làm ruộng.
Cuộc sống điền viên của Đào Uyên Minh hết sức thanh bần, lúc ông 44 tuổi, nhà ông không may bị cháy, khiến cuộc sống của ông ngày càng nghèo túng, câu thơ “Hạ Nhật Bão Trường Cơ, Hàn Dạ Vô Bị Miên” phản ánh cuộc sống vật chất thiếu thốn của ông. Nhưng, về tinh thần, Đào Uyên Minh sống thản nhiên tự đắc, thời kỳ đó chính là thời kỳ ông sáng tác nhiều bài thơ điều viên. Trong tác phẩm của ông, cuộc sống nông thôn, phong cảnh ruộng vườn lần đầu tiên được coi là đối tưởng thẩm mỹ quan trọng, cuộc sống điền viên được ông thuần khiết hóa và mỹ hóa cao độ, trở thành một chỗ lánh nạn tinh thần trong thế giới hiện thực đau khổ.
Lúc tuổi già, Đào Uyên Minh sống bần cùng thê lương, có khi ông thậm chí kiếm sống bằng ăn xin hoặc mượn lương thực, nhưng lúc khó khăn nhất, ông một lần nữa từ chối triều đình bổ nhiệm chức quan, tránh xa chính trị và quan trường. Lúc tuổi già, Đào Uyên Minh viết ra bài văn xuôi nổi tiếng mang tựa đề “Đào Hoa Nguyên Ký và Thơ”, trong văn xuôi, ông tạo ra một xã hội không tưởng. Bài văn “Đào Hoa Nguyên Ký” kể rằng, một người đánh cá bất ngờ đến Đào Nguyên, phát hiện những người sống ở đó, nhằm tránh khỏi phiến loạn chiến tranh, ông cha của họ ở ẩn Đào Nguyên, các thế hệ họ chưa bao giờ rời khỏi Đào Nguyên. Họ không biết việc đời bên ngoài, tính tình thật thà, chất phác, chịu khó lao động, sống cuộc sống yên tĩnh không lo lắng gì. Bài văn “Đào Hoa Nguyên Ký” là một tưởng tượng tốt đẹp, phản ánh lòng hướng về xã hội thái bình của đông đảo dân chúng trong thời đại bấp bênh đó.
Tuy Đào Uyên Minh chỉ để lại hơn 100 bài thơ, hơn chục bài văn xuôi, nhưng Đào Uyên Minh chiếm địa vị hết sức quan trọng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Lúc đó, thời kỳ Đông Tấn Đào Uyên Minh sống đang thịnh hành chủ nghĩa hình thức, nhiều người viết văn đều cố tình sử dụng từ ngữ hoa lệ, Đào Uyên Minh lại sáng tác thơ điền viên—một đề tài mới mẻ. Thơ của Đào Uyên Minh kế thừa phong cách chất phác của thơ ca truyền thống Trung Quốc, và đầy sức sống mới, tác phẩm của ông có ngôn ngữ chất phác, phong cách tươi mát và lưu loát, thơ của Đào Uyên Minh giống như một cái mốc lịch sử, đánh dấu thành tựu cao nhất mà thơ ca mang phong cách chất phác có thể đạt tới.
5. Khuất Nguyên và thơ của ông

Khuất Nguyên là quý tộc nước Sở, và đảm nhiệm chức quan cấp cao. Ông có học thức uyên bác, giỏi về ngoại giao, ban đầu, ông được nhà vua nước Sở ưa thích và tin tưởng. Trong thời đại đó, nhà vua và quyền quý các nước đều tranh nhau thu hút nhân tài phục vụ cho mình, cho nên họ tiếp đãi nhân tài một cách lễ phép. Lúc đó, nhiều người có học thức nổi tiếng đều du thuyết ở các nước, nỗ lực hết sức nhằm thực hiện lý tưởng chính trị của mình. Nhưng Khuất Nguyên không như vậy, ông rất quyến luyến tổ quốc, mong phụ tá nhà vua nước Sở bằng tài hoa của mình, khiến nước Sở chính trị dân chủ, thực lực nhà nước mạnh mẽ. Với lý tưởng như trên, Khuất Nguyên cho đến chết cũng không muốn rời khỏi tổ quốc. Điều đáng tiếc là, vì Khuất Nguyên có mâu thuẫn gay gắt với tập đoàn quý tộc hủ bại nước Sở về mặt nội chính và ngoại giao, hơn nữa lại bị người khác vu cáo hãm hại, Khuất Nguyên bị nhà vua nước Sở xa lánh, sau đó, địa vị nước lớn và thực lực nhà nước mạnh mẽ của nước Sở dần dần suy sụp. Năm 278 trước công nguyên, quân đội nước Tần đánh phá Dĩnh Đô, thủ đô nước Sở. Nước tan nhà tan, Khuất Nguyên không chịu nổi nỗi căm phẫn, nhảy xuống sông tự tử.
Khuất Nguyên để lại di sản bất hủ cho đời sau. Là nhà thơ sáng tác độc lập đầu tiên, bài thơ “Ly Tao”—tác phẩm tiêu biểu của ông là một bài thơ trữ tình chính trị mang đậm chủ nghĩa lãng mạn dài nhất trong lịch sử văn học cổ đại Trung Quốc. Trong bài thơ, tác giả dẫn lại nhiều điển tích lịch sử, mong nhà vua nước Sở học các quân chủ thánh hiền sáng suốt trong truyền thuyết như nhà vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, trong nước trọng dụng nhân tài, công bằng vô tư, thực thi đức chính; đối ngoại thì tích cực liên hợp với các nước khác chống lại nước Tần. Bài thơ “Ly Tao” đột phá hình thức biểu hiện của cuốn sách “Kinh Thi”—tập thơ đầu tiên của Trung Quốc, tăng cường sức biểu hiện của thơ ca, mở ra một không gian mới cho sáng tác thơ ca cổ đại Trung Quốc. Do vậy, người đời sau gọi chung “Sở Từ” và “Kinh Thi” là “Phong, Tao”. “Phong, Tao” là cội nguồn của hai truyền thống chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn trong lịch sử thơ ca Trung Quốc.
Ngoài tác phẩm tiêu biểu “Ly Tao” ra, bài văn “Thiên Vấn” của Khuất Nguyên là một bài thơ lạ lùng hiếm thấy từ trước đến nay, dùng câu nghi vấn nêu ra 172 vấn đề liền với ông trời, đề cập tới nhiều lĩnh vực như thiên văn, địa lý, văn học, triết học v.v., thể hiện tinh thần khoa học mạnh dạn hoài nghi quan niệm truyền thống và theo đuổi chân lý của nhà thơ. Ngoài ra, “Cửu Ca” là một nhóm bài hát tế thần, được sáng tác trên cơ sở bài hát tế lễ dân gian, trong thơ, nhà thơ sáng tạo nhiều hình tượng thần tiên, đa số là bài hát tình yêu giữa loài người và thần tiên.
Tác phẩm của Khuất Nguyên thể hiện nhiều ý nghĩ lạ lùng, ông nhân cách hóa hoa cỏ cây cối, sáng tạo nhiều hình tượng nàng tiên, để gửi gắm tình cảm cao cả của mình. Cho nên, đọc tác phẩm của Khuất Nguyên, không những có thể thể nghiệm cái đẹp đẽ của ngôn ngữ, cái lạ lùng của ví dụ, mà còn có thể thể nghiệm tình cảm cao cả và tình yêu quê hương yêu đất nước của nhà thơ. Bởi vậy, hàng nghìn năm nay, Khuất Nguyên luôn là nhà thơ cổ điển được người Trung Quốc kính trọng nhất.
6. Tô Thí và văn thơ của ông

Nhưng, vì Tô Thí tính tình ngay thẳng, luôn nói thẳng các điều hủ tục của triều đình, khiến mình trở thành vật hy sinh của cuộc đấu tranh giữa các phe phái ở triều đình. Trong nửa cuộc đời sau, ông luôn đấu tranh với hoàn cảnh chính trị hết sức khốn đốn. Từ lúc 43 tuổi trở đi, Tô Thí bị đi đày mấy lần, nơi bị đày ngày càng xa hơn, môi trường cũng ngày càng gian nan. Nhưng, trong cuộc đời tàn khốc hiểm nghèo, Tô Thí thông hiểu triết học Nho Giáo, Phật Giáo, Đạo Giáo Trung Quốc, tư tưởng Phật Giáo và Đạo Giáo giúp ông quan sát vấn đề linh hoạt khéo léo, có thể dùng thái độ khoáng đạt để thoát khỏi nỗi buồn phiền của cuộc đời, đồng thời tư tưởng Nho Giáo lại khiến ông kiên trì lý tưởng, kiên trì theo đuổi sự việc tốt đẹp trong cuộc sống. Điều này khiến Tô Thí vừa duy trì được nhân cách và tiết tháo của mình, vừa chịu nổi sự công kích tàn khốc của bên ngoài.
Tô Thí cư xử bộc trực, thẳng thắn, có khí phách kiên cường, tính tình lại hoạt bát, tự nhiên, không thủ cựu chút nào. Nhân cách và tâm lý của Tô Thí khiến văn nhân cuối thời kỳ xã hội phong kiến Trung Quốc hết sức hâm mộ, cái gọi là “Kiểu cách Đông Pha” thịnh hành ở Trung Quốc trong suốt 800 năm.
Tô Thí tài ba lỗi lạc, là nhà văn nổi tiếng giỏi cả về thể loại thơ, từ lẫn văn xuôi. Bài thơ của Tô Thí có nội dung rộng rãi, phong cách đa dạng, có sức tưởng tượng lạ lùng, có ví dụ mới mẻ, ngôn ngữ rất hình tượng. Từ của Tô Thí có phong cách riêng, ông phá vỡ quan niệm “Từ là thể loại chỉ viết về nội dung diễm tình”, mở rộng nội dung từ, viết về xã hội và cuộc đời rộng lớn hơn. Tô Thí cũng giỏi về viết văn xuôi, trong 8 nhà văn cổ đại nổi tiếng đời Đường và đời Tống Trung Quốc, Tô Thí có thành tựu lớn nhất. Lúc đó, tuy Tô Thí ở vào cảnh ngộ rất xấu, nhưng trí thức toàn quốc tranh nhau viết văn chương theo kiểu cách của ông. Thậm chí lúc đó thịnh hành một câu ngạn ngữ “Viết văn chương theo kiểu cách Tô Thí một cách thành thạo, ăn thịt dê; viết văn chương theo kiểu cách Tô Thí không thông thạo, ăn rễ rau”.
Về thể loại văn xuôi, Tô Thí viết văn xuôi kể chuyện du lịch hay nhất. Ví dụ, “Tiền Xích Bích Phú” và “Hậu Xích Bích Phú” của ông, “Tiền Xích Bích Phú” viết về mùa thu có trăng sáng gió mát, sông và trời trong xanh; “Hậu Xích Bích Phú” viết về cảnh mùa đông núi cao trăng nhỏ, nước xuống nhô mặt đá. Hai bài văn này đều thống nhất cảnh đẹp với lý thú và lý trí, trở thành tác phẩm mẫu mực của thể loại phú đời Tống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét