Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Điển cố văn học vần A - B

Điển cố Văn học vần "A"

1. Ả TẠ:
- Tức Tạ Đạo Uẩn. Xem Tạ Đạo Uẩn.
"Khen tài nhả ngọc phun châu,
Nàng ta, ả tạ cũng đâu thế này!"
(Nguyễn Du)

2. Ả TỐ NGA
- Xem Tố nga
"Đầu long hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
(Nguyễn Du)

3. ÁC
- Theo "Ngũ kinh thông nghĩa", tục truyền trên mặt trời có kim ô (Tức ác vàng hay quạ vàng) ba chân. Đó là "Kim ô" hoặc nói tắc là"ô, á" đều chỉ mặt trời
"Trải bao thỏ lặn ác tà,
Ấy mà vô chủ ai mà viếng thăm."
(Nguyễn Du)

4. ẢI LANG
- Cửa ải có đốt khỏi bằng phân chó sói để báo hiệu khi có giặc đến.
- Xem "Khói lang"
"Một cơn gió bẻ chồi khô,
Ải lang dứt dấu ngựa Hồ vào ra."
(Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái)

5. ẢI NHÀN
- Tức cửa ải Nhạn Môn QUan (Thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc), một trong những cửa ải hiểm trở, khi nào cũng có quân đóng giữ để phòng giặc ngoại xâm.
- Chỉ nơi xung yếu.
"Rợ Hồ quên théo con kiêu,
Ruổi mù bụi ngựa, trẩy theo ải nhàn"
(Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện)

6. Ả CHỨC
- Xem "Chức nữ"
"Kkác gì ả Chức, chị Hằng,
Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng"
(Nguyễn Gia Thiều)

7. Ả hẰNG
- Tức Hằng Nga. Xem "Hằng Nga"
"Bây giờ e lệ chưa tường,
Lâu lâu lại lấp lánh gương ả Hằng"
(Phan Trần)

8. Ả LÝ
- Tức nàng Lý Ký.
- Theo "Sưu Thần ký", Lý Ký vì nhà nghèo nên tự nguyện bán mình cho người làng đem cúng thần rắn để lấy tiền nuôi cha mẹ. Về sau nàgn chém chết thần rắn rồi lấy vua.
"Dâng thư đã thẹn nằng Oanh
Lại thưa ả Lý bán mình hay sao?"
(Nguyễn Du)

9. ÁN ĐỔ
- Theo thứ tự các bức tường vách.
- Hán thư "Sử dân án đồ như cổ" (Khiến dân cứ theo thứ tự như cũ). Ý nói cứ theo lệ cũ, không xáo trộn, làm cho dân được an cư lạc nghiệp.
"Ngoài sáu tỉnh hãy gợi câu án đổ,
Dân thờ vua đặng lẽ sống vui.
(Nguyễn DÌnh Chiểu)

10. ÁN HỌ MẠNH
- Cái khay đựng đồ ăn của nàng Mạnh Quang.
- Theo "Hán sử" nàng Mạnh Quân rất kính trọng chồng, khi dọn cơm cho chồng là Lương Hồng nàng thường nâng khay lên ngang mày, không giám ngửa mặt trông lên. Lễ giáo phong kiến coi hành động đó là một biểu hiện tốt của tư cách người làm vợ.
"Án họ Mạnh những ngang mày nẩy mực,
Ấm đàng hương lửa phải duyên"
(Nam hải tế văn)

11. ÁN NÂNG NGANG MÀY
- Xem Án họ Mạnh
"Án kia nâng ở ngang mày
Sạch trong một tiết, thảo ngay mốt bề"
(Quan Âm Thị Kính)

12. ÁN TUYẾT
- Chiếc án có ánh tuyết soi vào. Chỉ chiếc án để đọc sách.
- Theo "Thượng hữu lục", Tôn Khang, người đời Tấn chăm học, nhưng nhà nghèo, không có tiền mua dầu phải nhờ ánh trăng của tuyết mà đọc sách.
"Củi quế, gạo châu, kham khổ nằm chung trường ốc,
Song huỳnh, án tuyết, dùi mài mến nghiệp thi thư"
(Hồng Đúc quốc âm thi tập)

13. ANH QUÂN
- Quấn ngược giải mũ
- Mạnh Tử: "Bí phát quan anh nhivãng cứu chi"(Búi tóc lên và quấn ngược giải mũ mà chạy đến cứu).
- Ý nói hết sức vội vã,
"Chung nhau sống hả riêng nhau chết,
Chữ anh quân thôi xếp sách thầy Kha"
(Văn tế đồng bào Nghệ Tĩnh chết vì nạn lụt)

14. AO HÁN
- Cái ao trong cung vua Hán
- Theo "Hán Thư", Cung Toại, một danh tướng đời Hán, Tuyên ĐẾ có nói"Xích tử đạo lộng bệ hạ chi binh ư hoàng trì chi trung nhĩ"(Tre con trộm phép khua múa binh khí của nhà vua ở trong ao của nhà vua)
- Chỉ cuộc nổi dậy nhỏ chống lại triều đình. Xem "Con đỏ"
"LÀn nước phẳng kinh trầm ngạc lặn; áo Hán nào máy trẻ reo hò"
(Nguyễn Huy Lượng)

15. ÁO GẤM MẶC VỀ
- Mặc áo gấm trể về làng. Xem "Gấm ngày"
"Cũng đừng áy náy lòng quê,
Bao giờ áo gấm mặc về mới cam."
(Phan Trần)

16. ÁO GIỚI LÂN
- "Giới" là vỏ cứng, "lân" là vẩy cá. "Giới lân" hay "lân giới" là vỏ rùa, vẩy cá". ÁO giới lân là thứ áo giáp che chở cho thân thể của chiến binh, ví như cái vỏ che thân của loài rùa, loài cá.
"Áo giới lân trùm dưới cơ phu,
Mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ"
(Cao Bá Quát)

17. ÁO LAI
- Chiếc áo của Lão Lai Tử. Xem Sân Lai.
"Áo lai chưa múa sân này,
Thời đem kinh bổ mà thay gọi là"
(Quan Âm Thị Kính)

18. ÁO TRẮNG, MÔNG ĐEN
- Cái áo mùa trắng biến thành con mông (con thú) màu đen.
- Ý noi sự vận đổi nhanh chóng như đám mây trên trời khi thì có hình cái áo trắng, thoát một lát lại biến thành con mông đen. Xem "Thương cẩu, Vân cẩu".
"Phù vân một đóa bay đi,
Khi thì áo trằng khi thì mông đen"
(Quan ÂM Thị Kính)

19. ĂN CHẲNG CẦU NO
- Do tiếng Hán "Thực vô cầu bão"
- Luận ngữ"Quân tử thực vô cầu bãơ, cư vô câu an" (Người quân tử ăn không cần no, ở khôngcần yên)
- Ý nói mải lo đến đạo, không nghĩ đến thân.
"Ngày ba bữa vỗ bụng rau bịch bịch bịch,
NGười quân tử ăn chẳng cầu no"
(Nguyễn Công Trứ)

20. ẨN CẢ
- Do tiếng Hán "Đại ẩn". THơ Vương Khang CỰ đời Tấn: " Tiểu ẩn ẩn lăng tẩu, đại ẩn ẩn triều thị"(Kẻ ẩn sĩ nhỏ thì ẩn ở nơi gò đầm, người ẩn sĩ lớn thì ẩn ở giữa triều đình, thành thị)
"Ta nếu ở đâu vui thú đấy,
Người ẩn cả ,lo lâm tuyền"
(Nguyễn Trãi)

(Theo "Điển cố văn học" - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội - Hà Nội - 1977- Đinh Gia Khánh chủ biên)


Điển cố văn học vần "B"

1. BA CÂY

- Do tiếng Hán "Tam mộc"

- Theo "HÁn Thư", tam mộc là chỉ ba thứ hình cụ bằng gỗ thời xưa, tức là cái gông cổ, cái kẹp tay và cái cùm chân.

"Dạ rằng cứ phép gia hình 
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn"
(Nguyễn Du)

2. BA CÕI
- Do tiếng Hán "Tam giới"
- Sách nhà phậtcho rằng có ba cõi trời hay ba cõi thế giới là: dục giới tức cõi dục, sắc giới tức cõi sắc, vô sắc giới tức cõi vô sắc. Ở cõi dục thì người ta ai cũng có tình cảm dục vọng; ở cõi sắc thì ai cũng có hình sắc nhưng không còn tình dục nữal; ở cõi vô sắc thì đến cả hính sắc cũng không còn nữa và đạt đến cảnh yên vui hơn hết.
"Tranh đồ thập cúng treo bày,
Lòng đi ba cõi, hương bay chín trời"
(Quan Âm Thị Kính)

3. BA DƯƠNG
- Do tiếng Hán “Tam dương” 
- Người xưa cho rằng âm cực thì dương sinh. Mùa đông tháng mười là tháng lục âm (sáu âm), khí âm đã cực thịnh rồi, nên bắt đầu từ tháng mười một thì khí dương bắt đầu sinh dần. Tháng mười một là nhất dương (một dương) sinh, tháng chạp là nhị dương (hai dương) sinh, tháng giêng là tam dương (ba dương) sinh. Quẻ thái trong Kinh dịch có ba hào dương ở dưới, mà tháng giêng là tháng tam dương, nên thuộc quẻ Thái. Trước kia vào ngày tết Nguyên đán, người ta thường viết bốn chữ “Tam dương khai thái”(Tam dương mở đầu cho vận Thái; tức vận tốt”)dán trong nhà để cầu sự vận tốt lành trong năm mới.
Ba dương đã gặp thủa thời vần.
Bốn bể đều mừng một chúa xuân”
(Hồng đức quốc âm thi tập)

4. BA ĐIỀU SỢ
- Do tiếng Hán “Tam uý”
- Luẫn ngữ “Quân tử hữu tam uý, uý thiên mệnh, uý đại nhân, uý thánh nhân chi ngôn” (Người quân tử có ba điều sợ, sợ mệnh trởi, sợ bậc đại nhân, sợ lời nói của bậc thánh nhân)
- Nho gia thời trước thường lấy ba điều trên để tự răn mình.
“Dương Quân Tây còn sợ có bốn hay
Khổng Phu Tử những dạy ba điều sợ
(Nguyễn Cư Trinh)

5. BA MUƠI SÁU CHƯỚC
- Theo “Nam sứ”, Vương Khính Tắc có nói “Trong ba mươi sáu chước của Đàn Công, chạy là kế cao hơn cả”. Ý nói chẳng có cách nào hơn là bỏ chạy, chạy trốn.
“Thừa cơ lẻn bước ra đi,
Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn” 
(Nguyễn Du)
“Bàn thầm mọi lẽ thấp cao,
Ba mươi sáu chước, chước đào là hơn”

(Quan Âm Thị Kính)

6. BA NGÀN
- Tức ba ngàn thế giới
- Theo giáo lý đạo Phật, hợp một ngàn thế giới vào thì thành tiểu thiên thế giới, hợp thành ngàn tiểu thiên thế giớ lại thì thành trung thiên thế giới, hợp một ngàn trung thiên thế giới lại thì thành đại thiên thế giới, gọi chung là tam thiên thế giới (ba ngàn thế giới). Ở trên tam thiên thế giới lại có hoa nghiêm thế giới...
- Ý nói thế giới là vô lượng, vô biên, không tưởng tượng được
"Trong ba ngàn, Sãi vui để một bầu; ngoài sáu đạo, Sãi vui thông tam giới"
(Nguyễn Cư Trinh)

7. BA QUÂN
- Theo binh chế nhà Chu ở Trung Quốc thì quân là tên một đơn vị gồm một vạn hai ngàn năm trăm binh sĩ. Vua nhà Chu có sáu quân, nước chư hầu lớn có ba quân.
- Về sau từ ba quân được chỉ quân đội nói chung.
"Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy"
(Nguyễn Du)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét