Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

MỘT THẾ HỆ - MỘT CHẶNG ĐƯỜNG TIẾP CẬN DI SẢN HÁN NÔM

MỘT THẾ HỆ - MỘT CHẶNG ĐƯỜNG TIẾP CẬN DI SẢN HÁN NÔM
Vào đầu thập kỷ 70, giữa những năm tháng chiến tranh ác liệt, lúc đế quốc Mỹ đang leo thang bắn phá dữ dội miền Bắc xã hội chủ nghĩa lần thứ hai; dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hệ Cử nhân Hán Nôm chính qui đầu tiên trong hệ thống giáo dục nước nhà được thiết lập thuộc Bộ môn Hán Nôm, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Bộ môn Hán Nôm thời ấy chỉ có 4 giảng viên là các thầy: thầy Đinh Gia Khánh, thầy Lê Văn Quán, thầy Nguyễn Đình Thảng và thầy Trần Thuyết. Các thầy trong Bộ môn không thể đảm đương hết được chương trình giảng dạy, hơn nữa để tranh thủ kiến thức của các giáo sư đầu ngành về Hán Nôm học, Sử học, Ngôn ngữ học; nên Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn đã mời các giảng viên ở nơi khác tham gia giảng dạy, như: thầy Cao Xuân Huy, thầy Đỗ Ngọc Toại, thầy Nguyễn Tài Cẩn, thầy Hà Văn Tấn, thầy Phan Huy Lê, thầy Trần Quốc Vượng và thầy Trương Đình Nguyên.
Khóa sinh viên Hán Nôm đầu tiên được tuyển vào là năm 1972, khóa tiếp theo tuyển vào năm 1973. Về sau cứ cách một năm mới tuyển một khóa, mỗi khóa chỉ tuyển được hơn chục người. Những năm gần đây, việc tuyển sinh viên ngành Hán Nôm đã thường xuyên hơn và số lượng học sinh mỗi khóa cũng có vẻ đông hơn.
Sinh viên Hán Nôm những khóa đầu, ngoài các chương trình học chung với sinh viên ngành Văn học, Ngôn ngữ học (tuy nhiên cũng có giảm một vài môn); còn phải học một chương trình Hán Nôm khá nặng và phong phú. Gồm các sách cơ sở, như: Tam tự kinh, ấu học ngũ ngôn thi, Sơ học vấn tân, Luận ngữ chính văn tiểu đối, Minh tâm bảo giám, Minh đạo giáo huấn, Tứ thư (Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học, Trung dung), Ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Tả truyện), Chiến quốc sách, Tác gia và tác phẩm Hán Nôm Việt Nam tiêu biểu ở các thời kỳ lịch sử (Lý, Trần, Lê, Tây Sơn và Nguyễn); các chuyên đề cơ bản, như:Nguồn gốc và cấu tạo chữ Nôm, Văn bản học, Ngữ âm học lịch sử, Thư tịch học, v.v. Giáo trình giảng dạy hồi ấy thường là các bản viết tay, sau được in rônêô; hoặc các giáo án do các thầy soạn giảng và học sinh muốn ghi thế nào thì ghi.
Cuối khóa mỗi sinh viên bắt buộc phải làm luận văn tốt nghiệp dưới sự hướng dẫn của các thầy. Có thể coi đây là bài tập đầu tiên đem đến những kinh nghiệm cho những người làm công tác nghiên cứu khoa học sau này, đó là các khâu: từ việc sưu tầm tư liệu, đến đọc hiểu các tư liệu, rồi phân loại sắp xếp và xử lý hệ thống tư liệu, sau là tập viết theo kết cấu của một luận văn tốt nghiệp và văn phong khoa học chuyên ngành Hán Nôm.
Sau khi tốt nghiệp, những người may mắn có duyên phận với ngành Hán Nôm, thì được làm việc theo đúng ngành nghề đã đào tạo, còn nhiều người phải theo các nghề khác. Người đi dạy văn học cổ ở các trường đại học và trường văn hóa quân đội, người về dạy văn ở các trường phổ thông trung học, người đi làm cán bộ tuyên truyền văn hóa, thậm chí nhiều người đi làm những công việc trái với ngành nghề đã học. Chuyện học một nghề, khi ra trường có thể làm nhiều nghề, thể hiện sự thiếu qui hoạch của việc đào tạo bậc Đại học đã tồn tại từ lâu trong hệ thống giáo dục nước nhà.
Năm nay nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập ngành Hán Nôm của Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội); tôi mạn phép viết đôi lời về những người may mắn được Bộ môn Hán Nôm đào tạo, khi nhận công tác lại có duyên phận gắn với ngành mình đã chọn và đã học.
Những sinh viên Hán Nôm ra trường, sau khi nhận công tác và tiếp xúc với di sản Hán Nôm phong phú và đồ sộ mà ông cha để lại, có cảm giác choáng ngợp như đứng trước biển cả mênh mông. Thế rồi với chút kiến thức đã được trang bị trong nhà trường, có người đã dũng cảm nhảy ra bơi, có người rụt rè rồi cũng xuống bơi, có người phải chờ được dìu dắt và bây giờ cũng đã biết bơi trong cái biển kiến thức mênh mông ấy.
Trước hết, tôi nhắc tới anh Cao Tự Thanh, sau khi tốt nghiệp anh vào công tác tại phân Ban Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh, sau lại chuyển sang làm công tác văn hóa, bởi có một dạo, anh đã phụ trách Bảo tàng tỉnh Long An. Cứ nghĩ anh sẽ dùng tri thức Hán Nôm làm phương tiện cho hoạt động văn hóa, nhưng anh lại khá thành công trong cả hai lĩnh vực, đặc biệt là nghiên cứu Hán Nôm. Cùng lứa bạn học, anh là người đầu tiên cung cấp cho bạn đọc những công trình về văn hóa và di sản Hán Nôm ở Nam bộ, có thể kể như:Nguyễn Đình Chiểu với văn hóa Việt Nam (viết chung), 1983; Tác phẩm Nguyễn Thông (dịch chung), 1984; Nguyễn Hữu Huân, nhà yêu nước kiên cường, nhà thơ bất khuất (viết chung), 1986; Văn học Hán Nôm ở Gia Định, 1988; Quốc triều hương khoa lục (dịch chung với Nguyễn Thúy Nga và Nguyễn Thị Lâm), 1993; Thơ Trần Thiện Chánh, 1995; Giai thoại thơ Đường, 1995; Đại Nam liệt truyện tiền biên (dịch và giới thiệu), 1995; Nho giáo ở Gia Định, 1996; Nghiên bút mười năm, 1999; và nhiều bài viết đăng tải trên các tạp chí, báo khác...
Một số người về công tác ở Cục lưu trữ Nhà nước, đảm nhiệm việc thống kê phân loại, nghiên cứu và giới thiệu phông tư liệu viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, trong đó đáng lưu ý là Châu bản triều Nguyễn.Họ đã phấn đấu, học hỏi và làm việc hết mình, có người đã trở thành chuyên gia nghiên cứu về Châu bản triều Nguyễn ở Việt Nam. Tuy công tác ở ngành lưu trữ, nhưng vẫn không quên ngành học được đào tạo, họ đã vận dụng tri thức Hán Nôm của mình và kết hợp cùng các chuyên gia nghiên cứu để khai thác mảng tư liệu Hán Nôm hiện đang lưu giữ tại các kho. Những công trình nghiên cứu và giới thiệu tư liệu Hán Nôm thuộc Cục Lưu trữ Nhà nước lần lượt được công bố, có thể kể như: Thơ văn Đông Kinh nghĩa thục, Mục lục Châu bản triều Nguyễn (Võ Văn Sạch tham gia), Danh mục làng xã tỉnh Hà Nội cuối thế kỷ XIX (Trần Văn Viết), Cách thức lập Châu bản triều Nguyễn, Địa danh trong Châu bản triều Nguyễn (Nguyễn Văn Đường); v.v. cùng nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.
Kể tất cả các khóa có tới gần ba chục Cử nhân Hán Nôm về công tác ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia. Có người đã trải qua 25 năm trong ngành, có người mới được một vài năm; nhưng họ cùng có chung một nhiệm vụ là nghiên cứu, khai thác và giới thiệu di sản Hán Nôm. Các Cử nhân Hán Nôm về Viện Nghiên cứu Hán Nôm, được phân công về các phòng chuyên môn; với sự giúp đỡ của các bậc đàn anh, họ đã xác định cho mình phương hướng nghiên cứu chuyên sâu, để hướng tới trở thành những chuyên gia trong từng lĩnh vực nghiên cứu. Trải theo năm tháng, nhiều người đã cố gắng làm việc và có được những thành công:
Về nghiên cứu chữ Nôm, có một số người tham gia, họ đã say mê nghiên cứu các văn bản Nôm, nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt trong từng văn bản. Đến nay, họ thực sự trưởng thành trong lĩnh vực này và có những đóng góp nhất định, có thể nêu một số công trình, như: Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm “Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh” (Hoàng Thị Ngọ), Nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt qua văn bản “Thiên Nam ngữ lục” (Nguyễn Thị Lâm), Nghiên cứu mối tương ứng giữa âm Hán Việt và âm Nôm trong cách đọc chữ Nôm(Trương Đức Quả), Tân biên truyền kỳ mạn lục - Tác phẩm Nôm thế kỷ XVI (Hoàng Hồng Cẩm), v.v. cùng nhiều bài viết nghiên cứu, giới thiệu về chữ Nôm trên Tạp chí Hán Nôm cùng các tạp chí khác.
Về khảo cứu và giới thiệu công bố các tác phẩm và tác gia Hán Nôm, có khá nhiều người tham gia, và nhiều người đã biết cách khai thác theo những lĩnh vực mà mình chuyên sâu, nên có được những thành tựu nhất định. Có thể kể như: Nghiên cứu văn bản đăng khoa lục Việt Nam (Nguyễn Thuý Nga), Thơ văn Phạm Đình Hổ (Trần Kim Anh),Nghiên cứu về ấn triện Việt Nam (Nguyễn Công Việt), Nghiên cứu gia phả (Nguyễn Hữu Tưởng), Phương pháp làm sử của Lê Quý Đôn(Đinh Công Vỹ), Nghiên cứu văn bia Việt Nam (Trịnh Khắc Mạnh),Nghiên cứu văn bia xứ Kinh Bắc (Phạm Thị Vinh), Nghiên cứu văn bản thần tích (Nguyễn Hữu Mùi), Nghiên cứu ca trù (Nguyễn Xuân Diện), Thơ văn Phạm Hy Lượng (Cao Việt Anh), Việt điện u linh tập(Đào Phương Chi), Nghề khắc ván in ở Việt Nam (Nguyễn Thị Dương), Gia huấn (Lê Thu Hương), v.v.
Bên cạnh đó, nhiều người còn tham gia biên soạn các sách công cụ phục vụ việc tra cứu của chuyên ngành Hán Nôm nói riêng và khoa học xã hội chung, có thể kể như: Từ điển chữ Nôm (Hoàng Thị Ngọ, Trần Kim Anh, Trương Đức Quả và Nguyễn Thị Lâm tham gia), Các nhà khoa bảng Việt Nam (Nguyễn Thúy Nga và Nguyễn Hữu Mùi tham gia), Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam (Trịnh Khắc Mạnh), Đối chiếu chữ Hán thể triện thảo khải (Trịnh Khắc Mạnh đồng biên soạn), Bảng tra thần tích (Nguyễn Hữu Mùi tham gia),Trạng nguyên Tiến sĩ Hương cống Việt Nam (Cao Việt Anh tham gia),Lịch sử văn hóa Trung Quốc (Đào Phương Chi tham gia dịch), v.v.
Ngoài ra, nhiều người còn tham gia vào việc biên dịch những công trình Hán Nôm khác, ví dụ như: Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm, Thơ văn Lê Thánh Tông, Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam, Hội Tao đàn, Thư tịch Hán Nôm về nghề nông cổ truyền, Gương mặt phụ nữ Việt Nam qua thư tịch Hán Nôm, Di văn chùa Dâu, Ô châu cận lục, Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tổng tập văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Thư mục văn bia Việt Nam, Bia Văn Miếu Hà Nội, Văn bia Lạng Sơn, Tục lệ Lạng Sơn, Văn bia Hà Tây, Văn học Hán Nôm Hà Tây, Ngữ văn Hán Nôm, Tổng tập văn học Việt Nam, Nhìn lại Hán Nôm học Việt Nam thế kỷ XX, Một thế kỷ sưu tầm văn hóa dân gianv.v. và hàng trăm bài nghiên cứu đăng tải trong các Kỷ yếu hội thảo khoa học và trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, như: Tạp chí Hán Nôm, Tạp chí Văn học, Nghiên cứu lịch sử, Khảo cổ học, v.v.
Để có được những thành tựu nêu trên, nhiều người đã gắng sức để làm việc và với một phương châm vừa làm vừa học; học thầy, học các bậc đàn anh và học bè bạn. Trong quá trình học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nhiều người đã biết kết hợp để thành đạt nơi trường qui bậc Sau đại học. Đến nay có 9 người nhận học vị Tiến sĩ, 6 Thạc sĩ và nhiều người đang theo học hệ NCS và Cao học trong số gần ba chục sinh viên Hán Nôm hiện đang công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Ba mươi năm đã trôi qua, Bộ môn Hán Nôm, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Khoa Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội) đã đào tạo nên một thế hệ cán bộ nghiên cứu Hán Nôm dưới chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều vui mừng nhất là, bên cạnh các bậc nghiên cứu Hán Nôm lão thành; nay có đội ngũ cán bộ kế cận với nhiều độ tuổi khác nhau, đầy nhiệt tình say mê với nghề, mong muốn được góp phần vào công cuộc bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Với phương châm phải học nhiều để nghiên cứu sâu, và với sự giúp đỡ của những người đồng nghiệp, tin tưởng rằng trong tương lai họ sẽ là những chuyên gia góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành Hán Nôm học Việt Nam thế kỷ XXI.

T.K.M

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét