Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Tuyển tập điển tích điển cố

1.  Tích về Động Đào Nguyên
Đào Nguyên còn gọi là động Bích.

Đây là chỗ tiên ở.

Tương truyền đời nhà Tấn (265-419), có người chài cá ở huyện Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược ven theo bờ suối. Càng đi xa chừng nào thì thấy có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống. Đến một quãng, bỗng thấy trước mặt hiện ra một rừng đào. Hoa đào đỏ rực rỡ làm cho ngư phủ càng thấy say sưa thích thú. Định co người ở gần đấy nên bỏ thuyền, lên bờ. Vượt qua rừng đào, đến một ngọn núi. Dưới chân núi có một cửa hang nhỏ hẹp, vừa chui được một người. Bên trong thấp thoáng có ánh sáng.

Gợi tính tò mò, chàng lách mình vào cửa hang. Lúc đầu, cửa hang còn hẹp, sau rộng dần, rồi cả một thế giới hiện ra: ruộng vườn tươi tốt, nhà cửa thôn ấp liên tiếp nhau; tiếng gà, tiếng chó nghe rõ mồn một; thanh niên thiếu nữ đều say sưa công việc đồng áng. Trên mặt mọi người hiện nét vui tươi chất phác hồn nhiên. Người già, con trẻ đều có vẻ ung dung thanh thản.

Những người ở đây thấy chàng ngư phủ thì lấy làm kinh ngạc hỏi: làm sao đến được chốn này? Ngư phủ trình bày sự thực. Các bực phụ lão đem vợ con ra chào mừng khách lạ, dọn cơm rượu đãi khách. Ngư phủ ăn uống lấy làm ngon lạ, vì tuy cơm rượu mà tính chất khác thường.

Những bậc phụ lão lại nói:

- Tổ tiên chúng tôi tránh loạn đời Tần, đem cả gia đình vào ở đây, từ đó cách biệt với bên ngoài. Hiện nay, chúng tôi không còn biết nhà Hán, huống hồ là nhà Ngụy, và nhà Tấn.

Cuối cùng, họ lại dặn ngư phủ: sau khi ra khỏi chốn này, xin đừng cho ai biết có họ ở đây.

Người đánh cá ở chơi một hôm rồi xin cáo biệt.

Từ đời nhà Tần (221 trước D.L.) đến nhà Tấn (419 sau Dương lịch) mà họ đến đây tránh nạn kể ra có trên sáu trăm năm. Người đánh cá cho mình may mắn đã được gặp tiên. Nên khi trở về, nhiều người đến thăm hỏi, trước còn tìm cách giấu nhưng cuối cùng chuyện thấu đến quan Thái Thú sở tại, ngư phủ đành phải thuật cả việc lại.

Có tính hiếu kỳ, viên Thái Thú sai người đi theo chàng ngư phủ tìm lại động Đào Nguyên, nhưng hai người bị lạc đường đành phải trở về.

Trong truyện "Hoa tiên" của Nguyễn Huy Tự có câu: "Nào hay là khách Đào Nguyên đã về".

Trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du đoạn thuật lại lời Thúy Kiều nói với Kim Trọng trong khi nhà vắng, nàng lén sang chỗ ở của chàng, có câu: "Xắn tay mở khóa động Đào".

"Động Đào" là động Đào Nguyên, Kiều dùng lối thậm xưng, đề cao chỗ ở của tình nhân như một cõi tiên; và nàng cũng vinh hạnh được vào... cõi tiên ấy.
Trong "Tần cung nữ oán Bái Công văn" của Nguyễn Hữu Chỉnh (?) có câu: "Nếu tuổi xanh chẳng nhuốm bụi hồng, chiếc ngư phủ đã đưa vào động Bích".
"Động Đào", "Đào Nguyên", "động Bích" đều do điển tích trên. 

 2. Tích con "quốc quốc"
Con "Quốc quốc" vốn là chim Cuốc. Tiếng "quốc quốc" do cách tá âm "cuốc cuốc" mà ra. Trong bài "Qua đèo Ngang" của bà huyện Thanh Quan, có câu:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Chim Cuốc còn có tên là Đỗ Quyên, Tử Quy hay Đỗ Vũ. Giống chim này, đầu mỏ hơi cong, miệng to đuôi dài, lưng màu tro, bụng sắc trắng có một đường đen thẳng ngang. Nó thường lủi trong bụi rậm dưới ao sâu hoặc hồ rộng.
Cuối xuân sang hè thì bắt đầu kêu. Giọng thê thảm khiến khách lữ hành động lòng nhớ nhà, nhớ quê hương.

Chim này không tự làm tổ lấy, đẻ trứng vào ổ chim Oanh. Chim Oanh ấp, nuôi cho đến lớn.

Sự tích chim Cuốc có nhiều thuyết.

Có điển cho rằng vua nước Thục là Đỗ Vũ thông dâm với vợ một bề tôi là Biết Linh, Biết Linh dấy loạn. Vua Thục thất bại, mất ngôi, chạy trốn vào rừng. Đoạn này sách "Thành đô ký" lại nói: Vua Thục thông dâm với vợ Biết Linh. Biết Linh biết chuyện, bày kế cho vợ nói khích Đỗ Vũ nhường ngôi cho Biết Linh rồi cùng vợ Biết Linh bỏ nước đi, để sống cho trọn tình chung. Đỗ Vũ nghe theo, giao nước cho Biết Linh nhưng vợ Biết Linh bây giờ bỏ Đỗ Vũ, trở lại sống cùng chồng.

Buồn khổ, nhớ nước, sau thác, Thục đế hóa thành chim Đỗ Quyên, ngày đêm kêu mãi không thôi.

Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du đoạn tả về khúc đàn của Kiều gảy cho Kim Trọng nghe lúc tái hợp, có câu:

Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục đế hay mình Đỗ Quyên.

Lại cũng có điển chép: Thục đế An Dương Vương của nước ta (207 trước D.L.?), vì con gái là Mỵ Châu bị lừa, trao nỏ thần cho chồng là Trọng Thủy nên phải thua trận và nhảy xuống biển tự tử. Vì nhớ nước nên hóa thành chim Cuốc, ngày đêm kêu lên những tiếng não ruột.

Thuyết sau này e không đúng. Vì tiếng "Đỗ Quyên", "Đỗ Vũ" nguồn gốc vốn ở Trung Hoa.

Thật không có tiếng gì kêu bi thảm, não ruột cho bằng tiếng chim Cuốc. Những buổi trưa hè nắng chang chang hay những đêm hè tịch mịch, tiếng chim Cuốc trong những bụi rậm hay trong bụi niễng dưới đầm vọng lên làm lòng người cảm thấy bi ai một cách lạ lùng. Nó gợi lên được sự nhớ nhung một thời oanh liệt xa xôi nào; có khi nó thúc giục và làm bừng dậy cái tinh thần ái quốc nồng nàn đương tiềm tàng trong lòng người dân thời nước mất nhà tan.

Thi ca cổ điển Việt Nam dùng rất nhiều điển về chim Cuốc.

Trần Danh An, một di thần nhà Lê (1428-1788), nghe tiếng Cuốc kêu cũng cảm xúc, nhớ lại một triều đại hưng thịnh, một công nghiệp dựng nước của Thái Tổ, tài đức Thái Tông... Hôm nay, Chiêu Thống hèn nhát, họ Trịnh chuyên quyền, lòng ái quốc thiết tha sống động trong tâm hồn thi sĩ; nhưng thi sĩ cảm thấy mình bất lực trước thời cuộc nên đành gói ghém tâm sự di thần của mình trong mấy vần thơ:

Giá cô tại giang Nam
Đỗ Quyên tại giang Bắc
Giá cô minh gia gia
Đổ Quyên minh quốc quốc.
Vi cầm do hữu quốc gia thanh,
Cô thần đối thử tình vô cực.

Nghĩa:
Chim giá cô ở bờ sông Nam,
Chim Đỗ Quyên ở bờ sông Bắc,
Giá cô kêu gia gia,
Đỗ Quyên kêu quốc quốc
Chim nhỏ còn kêu tiếng nước nhà
Cô thần đối cảnh tình man mác.

Bà huyện Thanh Quan khi qua đèo Ngang đã mượn tiếng Cuốc kêu để diễn tả tâm trạng thầm kín của mình đối với công nghiệp của triều Lê đã mất:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Nhưng tiếng Cuốc ở đây lại càng lâm ly, não nùng hơn nữa.

Đứng trước thành Cổ Loa, xưa kia nơi đây là cung miếu của vua Thục, nhà thơ Chu Mạnh Trinh bất giác sinh lòng hoài cổ. Cung miếu đó, xưa kia tráng lệ huy hoàng bao nhiêu thì ngày nay điêu tàn quạnh quẽ bấy nhiêu. Trong cảnh vắng vẻ lạnh lùng này, dưới ánh trăng mờ nhạt, tiếng cuốc khắc khoải năm canh vọng lên buồn bã.

... Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt,
Trăng mờ khắc khoải Cuốc kêu thâu
(Bản dịch của Tiền Đàm)

Nguyên văn:
... Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu,
Đỗ Quyên đề đoạn nguyệt âm âm.

Tiếng Cuốc của quan Án Chu Mạnh Trinh tuy có não nuột thật nhưng chưa sâu xa thấm thía và bi đát bằng tiếng Cuốc kêu của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến. Tiếng Cuốc của Cụ Nguyễn là tất cả tiếng nói của lòng một người dân tha thiết yêu nước bị mất nước. Tiếng Cuốc đó còn nói lên một mối đau buồn uất hận của tác giả vì nỗi bất lực trước cảnh đen tối của thời cuộc. Và, đó cũng là tiếng nói của lương tâm thôi thúc tác giả xông pha vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc:

Khắc khoải sâu đưa giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đừng gọi?
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Ban đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.

Mượn tiếng Cuốc kêu để diễn tả tâm sự của một người dân vong quốc vẫn là một thông lệ trong văn chương Việt Nam.

"Thục đế", "Đỗ Quyên", "Quốc quốc" đều do điển tích trên.

(Theo Điển hay tích lạ-Nguyễn Tử Quang)


3.Chức cẩm hồi văn [Điển hay tích lạ]
Điển hay tích lạ
Chức cẩm hồi văn 

Đời nhà Tấn (265-419) ở đất Thần Châu có nàng Tô Huệ tự Nhược Lan. Nàng, dung nhan kiều mị, tài đức song toàn, văn chương xuất chúng. Khi Tô được 20 tuổi cha mẹ đính gả cho hàn sĩ Đậu Thao, người cùng quê. Vợ chồng ăn ở đầm ấm. Nàng Tô rất mực chiều chồng, đảm đương tất cả mọi việc gia đình để cho Đậu Thao có đủ thì giờ theo đuổi trau dồi nghiên bút. Người ở quanh vùng đều cho là hạnh phúc và hết sức ngợi khen nàng.
Sau Đậu Thao đỗ đạt làm quan, may mắn được nhâm chức tại Thần Châu, không phải đi đâu xa cả. Gia đình đã đầm ấm hạnh phúc lại càng đầm ấm hạnh phúc hơn.

Nhưng rồi vì công vụ cần thiết, vua truyền Đậu Thao ra trấn đất Lưu Sa. Vì nơi gian lao hiểm trở nên Đậu Thao đành phải để vợ ở nhà.
Thời gian qua ...

Ba năm chờ đợi, nàng Tô ngày càng sức vóc mỏi mòn, dung nhan tiều tụy. Đêm đêm, bên ngọn đèn khuya, nàng ngồi âm thầm đối bóng, tủi phận hờn duyên, lo ngại thân chồng mà giọt châu tầm tã. Lòng đau dằng dặc, nỗi nhớ triền miên nên hồn thơ dâng trào lên ngọc bút làm thành 10 bài tứ tuyệt. Nàng lại lấy gấm vuông độ chừng một thước, dùng chỉ ngũ sắc thêu 10 bài tứ tuyệt lên trên theo hình trôn ốc, từ ngoài xoáy tròn vào trung tâm bức gấm.

Nàng thêu khéo, chữ nay, nên bức gấm trông cực kỳ tuyệt mỹ. Xong nàng tự tay dâng lên nhà vua. Thấy lạ, vua truyền cho quần thần đọc, nhưng cả triều không ai đọc được. Vua đành gọi nàng:
Đứng giữa triều, Tô cất tiếng ngâm với một giọng não nùng bi thảm:

Quân thừa hoàng chiếu an biêu thú,
Tống quân tống biệt hà kiều lộ.
Hàm bi yểm lụy tặng quân ngôn
Mạc vong ân tình tiện trường khứ.
Hà Kỳ nhất khứ âm tín đoạn,
Ý thiếp bình vi xuân bất noãn.
Quỳnh dao giai hạ bích đài không.
San hô trướng lý hồng trần mãn.
Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn,
Tương tâm hà thác cánh phùng quân.
Nhất tâm nguyện tác thương hải nguyệt
Nhất tâm nguyện tác lãnh đầu vân.
Lãnh vân tuế tuế phùng phu diện,
Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên.
Phi lai phi khứ đáo quân bàng
Thiên lý vạn lý giao tương kiến.
Thiều thiều lộ viễn quan san cách,
Hận quân tái ngoại trường vi khách.
Khứ thời tống biệt lư diệp hoàng
Thùy kính kỷ kinh mai hoa bạch.
Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo,
Xuân ý thôi nhân hướng thùy đạo.
Thùy dương mãn địa vị quân phan,
Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo.
Đình tiền xuân tảo chính phân phương,
Bảo đắc tần tranh hướng họa đường.
Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc,
Phó ký tình thâm đáo sóc phương.
Sóc phương thiều đệ san hà việt.
Vạn lý âm thư trường đoạn tuyệt.
Ngân trang chẩm thượng lệ chiêm y,
Kim lũ la thường hoa giai liệt.
Tam xuân hồng nhạn đệ giang thanh,
Thử thị ly nhân đoạn trường tình,
Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn,
Oán kết tiên thành khúc vị thành.
Quân kim ức thiếp trọng như san,
Thiếp diệt tư quân bất tạm nhàn.
Chức tương nhấn bản hiến Thiên Tử,
Nguyện phóng nhi phu cấp bảo hoàn.
Bài này có nhiều người dịch. Dưới đây là bản dịch của Hoàng Quang:

Chàng vâng chiếu ra yên cõi ngoại,
Thiếp đưa chàng tới lối cầu sông.
Ngậm sầu gạt lệ nhắn lòng,
Chớ tham chốn khác mà vong tình này.
Trông tin tức tới nay thăm thẳm,
Để buồng hương chẳng ấm hơi xuân.
Từ ngày đôi ngả cách phân,
Màn dần bụi bám, thềm dần rêu phong.
Tưởng ly biệt nỗi lòng kinh sợ,
Thiếp với chàng bao thuở gặp nhau.
Nguyện làm trăng giữa biển sâu,
Nguyện làm mây phủ trên đầu non cao.
Trăng giữa biển năm nào cũng thấy,
Mây đầu non đường mấy cũng thông.
Bay qua bay lại bên chồng,
Dầu ngàn muôn dặm xa trông như gần.
Quan san ấy mấy lần trở cách,
Hiềm nỗi chàng làm khách rất lâu.
Chàng đi mới ố bông lau,
Mà nay mấy độ trắng màu hoa mai.
Hoa trăm thức xuân vui hớn hở,
Xuân giục người than thở với ai.
Dương kia đủ những tơ dài,
Hoa kia rã cánh không người quét cho.
Sân xuân sớm thơm tho trăm thức,
Chốn họa đường lực bận đàn tranh.
Giang Nam năm khúc rành rành,
Mượn đầu năm mong gởi tình sóc phương.
Sóc phương ấy đôi đường diệu vợi,
Âm thư này nhắn gởi khôn thông,
Gối riêng nước mắt tuôn dòng,
Xiêm thêu áo vẽ lâu cùng mục tan.
Ba xuân tới tiếng nhàn nhắn gởi,
Xuân giục người bối rối như tơ.
Năm dây còn đón sờ sờ;
Buồn đà đứt ruột, gảy chưa rồi đàn.
Chàng thương thiếp còn hơn núi nặng,
Thiếp nhớ chàng tình chẳng kém thua.
Dệt đem bức gấm dâng vua,
Xét lòng dạ thiếp tha cho chồng về.
Ngâm xong, nàng Tô nước mắt đầm đìa. Nhà vua quá cảm động không dám nhìn nàng, vội hạ chiếu cho Đậu Thao về ngay.

Mười bài thơ ấy được truyền tụng với bức gấm thêu, ai cũng nước nở khen cho Tô là một bực kỳ tài. Trước họ gọi bức gấm thơ ấy là "Toàn Loa Đồ" (Bức đồ hình tròn trôn ốc), sau lại cho tên không xứng với giá trị của tác phẩm nên đổi là "Hồi Văn Cách" (Bài văn có tác dụng làm cho người đi biên thú được trở về), nhưng cũng vẫn chưa thấy thỏa đáng. Cuối cùng, họ lại đổi và thêm tên tác giả là "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn".

Thông cảm mối tình sâu đậm của nàng Tô, cổ nhạc Việt Nam có người đã dựa theo bài "Chức Cẩm Hồi Văn" mà sáng tác một bài hát điệu Nam Ai, cũng nhan đề là "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn". Lời lẽ lưu loát, ý tình nồng nàn, nhưng không biết tác giả là ai. Bài như thế này:

Khi vâng chiếu chỉ ra đề cờ,
Từ chàng đi, thiếp bặt tin đợi chờ.
Hồng nhạn kêu thu sông Hớn bơ vơ.
Áo não nùng khiến dạ ngẩn ngơ.
Trách bấy ông Tơ gieo chi mối sầu như tóc tơ.
Nghĩ mấy lời từ hồi ban sơ.
Nhớ những khi thiếp nguyện trăm năm tam tùng thờ.
Chàng mần răng ý lẳng lơ.
Chân đi thăm thẳm, mắt ngóng luống nhớ cách núi ải, biết chừ trao thơ
Má phấn duyên phai lạt, hồng nhan trông đợi chờ
Trướng lý để bụi trần nhơ.
Kìa cờ ai, nghe tiếng trống vẫn bóng xa xa
Hay là chiếu triệu chồng ta.
Chốn giang biên, chàng ôi có hay chăng là
Để lụy tương tư này như chút phận Hằng Nga.
Đêm đông quạnh quẽ, tiếng quyên hòa
Gìn lòng son nỡ để cho trăng già
Luông tuồng bao nỡ vắng bặt nhạn tin qua.
Hay là ong bướm đã say đắm mê hoa,
Chim ô thước qua sông Ngân thường,
Nỡ nào để cho loan phụng Sâm Thương.
Chẳng biết no nao cá nước hội một trường,
Kẻo nặng nề hai chữ uyên ương
Ong bướm dẫu say mên hoa hường,
Cũng đoái tưởng chút nghĩa tào khương.
Chim bao nài bay qua cho tỏ tường.
Để trông đợi tháng ngày thương.
Trông tin chàng, đêm nằm mơ màng,
Tỉnh giấc hòe trằn trọc thở than.
Năm canh sầu riêng cho bạn vàng,
Phận làm trai hiếu nghĩa trung cang.
Bệ ngọc trên báu kiếm sắc phán.
Chốn giang biên ra khử trừ đảng gian.
Nước noan xa cách muôn dặm, da người bọc mình chàng.
Tuyết sương lạnh nơi chốn Đồng quan
Chàng trừ mô ra giai đấi khởi ngụy bang,
Cho rồi, đặng trở về Trường An.
Kẻo để tương tư này mày xanh sầu võ vàng.
Soi đài gương luống thẹn hồng nhan.
Châu rơi lã chã lệ tuông đôi hàng,
Hiềm vì ai xui duyên nợ lỡ làng.
Ngàn trùng xa cách như khách ở ngoại bang.
Bao nỡ bỏ cái nghĩa Ngưu lang,
Thuở ra đi lau lá vàng.
Bây chừ đã trắng mai rỡ ràng.
Cung quế xơ rơ bóng nguyệt đã tàn.
Ơn kia chưa trả oán nọ liền mang.
Nghe tiếng dế năm canh mơ màng,
Ngỡ tạc ngựa chàng đã hồi bang.
Bởi duyên cớ nào bạc đen lòng phụ phàng.
Để gió thảm mưa sầu khan.
Chẳng biết no nao yên gót trở về
Trên ngai vàng bạc thẻ bêu kia.
Răng rứa bạn niềm tây nhớ nghĩa, nhớ nghĩa
Mây bay khói tỏa in cờ rìa,
Trống trường thành giục điểm canh khuya.
Bâng khuâng nhớ chàng như nhạn chít lìa.
Thiếp lạy ông Trời: chớ có phân chia.
Từ chàng ra chốn cung đao,
Thiếp trông tin chàng tựa cá trông sao.
Ôm gối phụng chờ trông áo não, áo não ...
Sao quên lời núi hẹn sông giao.
Ai đi lấp thảm cho khuây má đào
Tương tư này rằng thấu cung cao.
Ơn trên tha về đặng tỏ nỗi âm hao.
Hiệp một nhà mới phỉ ước ao. (1)
(1) Vì không tìm được bản chính, chỉ nghe người ca truyền mà sưu tập lại, hẳn có ít chỗ chưa được ổn đáng. Vậy xin cáo lỗi cùng tác giả và bạn đọc; và mong được bổ chính cho. Nhân đây xin cảm tạ lòng tốt của ông Ngô Văn Lương (ở Bạc Liêu), người đã giúp một phần cho tài liệu này.

4. Tích "gương vỡ lại lành"
Gương vỡ lại lành


Trung Quốc, đời nhà Trần, người hầu cận Thái Tử là Từ Đức Ngôn có tình với Nhạc Xương công chúa.

Khi nhà Trần suy loạn, Từ bảo công chúa:

- Nước mất, nàng tất lọt vào nhà quyền quý. Nếu tình duyên chưa dứt thì còn có ngày được gặp nhau.

Đoạn, bẻ tấm gương làm đôi, mỗi người giữ một mảnh hẹn nhau đến ngày thượng nguyên sẽ đem gương đến kinh đô bán để tìm nhau.

Bấy giờ, giặc đánh vào đế đô. Từ chạy thoát, còn công chúa bị tướng giặc là Việt Công bắt ép làm vợ. Đến ngày rằm tháng giêng, Từ đem mảnh gương ra chợ bán, thấy có người cùng bán một mảnh gương giống của mình. Lấy hai mảnh gương ghép lại thì liền nhau như một. Từ bèn gởi cho người bán gương, nhờ đem về cho chủ mảnh gương ấy và kèm theo một bài thơ:

Người đi gương cũng đi,
Gương về người chưa về.
Chị Hằng đâu chẳng thấy,
Chỉ thấy ánh trăng lòe.

Nguyên văn:

Cảnh dữ nhơn câu khứ,
Cảnh quy nhơn vị quy
Vô phục Hằng Nga ảnh,
Không lưu minh nguyệt huy.

Nhạc Xương công chúa đọc thơ khóc rống lên. Việt Công hỏi, công chúa thuật lại cả. Việt công lấy làm cảm động, thương tình bèn cho cả hai người tái hợp.

Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du có câu:

Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi. 


5. Bể dâu

Nguồn gốc của điển tích bể dâu bắt đầu từ chữ “Thư­ơng hải tang điền”. Thương hải hay còn phát âm là thanh hải: tức là biển xanh. Tang điền là ruộng trồng dâu nuôi tằm. Câu này có ý, một nơi từ biển xanh sâu thẳm hay biển sâu xanh thẳm đã biến thành ruộng trồng dâu, chỉ việc đời biến đổi nhanh chóng, đã khác hẳn so với ngày xưa.

Trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du có câu thơ nổi tiếng:

Trải qua một cuộc bể dâu.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.


(st)


6. Châu về Hợp Phố

Trong “châu về Hợp Phố”, “châu” là từ vốn dùng để chỉ ngọc trai, về sau để chỉ ngọc nói chung, còn “Hợp Phố” vốn là tên của một quận xa xưa của Giao Châu. Đây là một nơi sản xuất châu nổi danh.

Tương truyền, ở thời Hậu Hán có tên quan thái thú tham lam, bạo tàn, thường bắt dân lấy ngọc châu rất ngặt. Vì thế mà châu đã bỏ quận nhà để sang quận Giao Chỉ. Cho đến khi Mạnh Thường đến thay chức Thái Thú, ra những đạo luật mới, bỏ những tệ cũ, cho dân chúng tự do kiếm châu, sản xuất châu, thì châu từ quận Giao Chỉ trở về quận Hợp Phố quê nhà. Từ tích này, người ta mới dùng câu “châu về Hợp Phố” để chỉ vật quý trở lại chốn cũ, hay nhận lại những vật quý đã mất.

(st)


7.Chuyện ba phải

Thuở xưa, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có ba đệ tử. Một hôm rảnh rỗi, ba ông ngồi với nhau tranh cãi thế nào là chân lý duy nhất. Ðương nhiên với bản lĩnh uyên thâm của từng ông, họ luôn bảo vệ lý luận của mình là chân lý, chả ông nào chịu ông nào. Cuối cùng, họ thống nhất đem kiến giải của bản thân trình Ðức Phật nhờ Ngài phân xử. Nghe đệ tử đầu trình bày xong, Ðức Phật nói là ông ta đúng. Tiếp đến người thứ hai Ðức Phật cũng nói ông này đúng. Người thứ ba cũng vậy;
.....
Ba người đệ tử không biết rằng ẩn dụ của chân lý duy nhất chính nằm ở chỗ đó. Đức Phật ngụ ý rằng chân lý duy nhất không nằm ở đâu cả. Cái gì cũng có thể là chân lý, mà cũng không có cái gì là chân lý.
Lâu dần nghĩa tích cực của từ ba phải chuyển thành tiêu cực. Những người nhu nhược, ai nói gì cũng thấy đúng, kô có chủ kiến riêng của mình.

(Dựa tích đã đọc trong Cơ hội của Chúa, kô biết có chính xác ko)

(st)

8. Khánh Ly

Trịnh Công Sơn đã nói rằng ông đặt nghệ danh cho ca sĩ Lệ Mai là Khánh Ly bởi vì ông hâm mộ hai nhân vật trong lịch sử là Khánh Kỵ và Yêu Ly.

Như thế này:

Yêu Ly là thích khách người nước Ngô đời Xuân Thu. Công tử Quang giết vua Ngô rồi lên ngôi, tức là Hạp Lư. Con vua Ngô là công tử Khánh Kỵ (tên Liêu) trốn sang nước khác, chiêu nạp hào kiệt kết liên lân quốc tìm cơ hội báo thù. Hạp Lư nghe chuyện Khánh Kỵ, ăn không ngon ngủ chẳng yên, bèn lập kế dùng Yêu Ly giết Khánh Kỵ . Hạp Lư khép tội Yêu Ly rồi chặt mất cánh tay phải và giết hết vợ con Yêu Ly để Khánh Kỵ tin. Yêu Ly gặp Khánh Kỵ, được tin dùng . Tới lúc Khánh Kỵ cùng quân sĩ xuôi dòng sông về đánh Ngô, Yêu Ly ngồi chung thuyền đợi lúc gió mạnh cầm giáo đâm suốt bụng Khánh Kỵ. Khánh Kỵ xách ngược đầu Yêu Ly lên dìm xuống nước ba lần rồi lại để lên đầu gối, cúi nhìn, cười mà rằng “thiên hạ còn có dũng sĩ dám cả gan đâm ta!” Quân sĩ lúc đó xúm lại đòi giết Yêu Ly, nhưng Khánh Kỵ gạt đi mà bảo, “người này là một dũng sĩ! Chớ nên trong một ngày mà để chết hai dũng sĩ của thiên hạ. Đừng giết y, tha cho y về Ngô để cho y được tỏ lòng trung.”

Sau đó, Yêu Ly tự cho mình là kẻ bất nhân bất nghĩa bất trí, thẹn với Khánh Kỵ mà tự sát chết …

Hết chuyện …

(st)

9. Mâu thuẫn

Chuyện đời xưa, có một anh chàng nọ ra giữa chợ bán binh khí. Anh ta rao lớn lên rằng:
-Mua đi mua đi, đây là cây mâu sắc nhất thiên hạ đây, đâm cái gì cũng thủng.

Một lúc sau, anh ta lại rao:
-Mua đi mua đi, cái thuẫn (cái khiên) này vô cùng chắc chắn, không vật nào có thể đâm thủng.

Người qua đường thấy chuyện tức cười mới hỏi anh ta rằng:
-Thế nếu tôi lấy cái mâu của anh đâm vào cái thuẫn của anh thì sẽ thế nào, mâu gãy hay là thuẫn hư?

Anh chàng bán mâu há miệng mắc quai, kô thể trả lời đc. Từ đó người ta dùng tích mâu thuẫn để chỉ nhừng lời nói vô lý, đối nghịch nhau. Sau dùng rộng ra, mâu thuẫn còn chỉ cả xung khắc giữa mọi người…

(Ghi lại theo trí nhớ từ truyện cổ.)

(st)

10.Nụ Cười Đáng Giá Ngàn Vàng

Chu U Vương thời Đông Chu có nàng ái thiếp tên Bao Tự dung nhan xinh đẹp. U Vương si mê tới mức phế bỏ Thân Hậu lập Bao Tự làm Chánh Cung, nhưng Bao Tự vẫn luôn mang trong lòng nỗi ưu tư sầu thảm. U Vương tìm mọi cách để mua vui cho nàng. Nhà vua tìm mua hàng trăm tấm vải lụa về cho Bao Tự xé rách tạo ra tiếng kêu vui tai, nhưng vẫn không làm Bao Tự cười lên được. U Vương hứa ai làm cho Bao Tự cười sẽ được trọng thưởng ngàn vàng.

Quắc Công vốn là một tên a dua nịnh thần bèn hiến kế: Vốn nhà Chu có một chòi canh gác ở Lư Sơn, khi có giặc giã thì lên đài đốt cháy báo hiệu cho chư hầu tới cứu giá. U Vương nghe theo đốt lửa báo tin các chư hầu tưởng trong nước có biến lần lượt đem quân về cứu giá. Nhưng thấy U Vương vẫn bình an vô sự, các chư hầu mạnh ai kéo quân về. Bao Tự thấy cảnh chư hầu đổ xổ nhau tới rồi lúng ta lúng túng ra về, thì nàng cười thành tiếng. U Vương giữ đúng lời hứa trọng thưởng cho Quắc Công ngàn vàng.

Sau này khi Thân Hầu cùng Khuyển Nhung kéo binh vào kinh thành, U Vương lại lên Lư Sơn đốt lửa báo hiệu nhưng chẳng có ai tới.

(st)


11. Nam Nữ thọ thọ bất tương thân

Ngũ Viên (tự Tử Tư) vì oán hận Sở Bình Vương hoang dâm giết chết cha mình và anh là Ngũ Thượng, nên bỏ Sở ra đi tìm cách trả thù nhà.

Vua Sở biết Tử Tư là người có tài năng sợ rằng để ông sống sẽ di họa về nhau nên cho người truy sát.

Tư Tư phải nhiều lần cải trang mới tránh khỏi sự truy đuổi của quan quân nhà Sở. Sức cùng lực cạn, Ngũ Tư Tử không còn đồng xu dính túi, đói rét khổ sở. Một quả phụ đang đem thức ăn cho cha mẹ của mình ở ngoài ruộng thấy tình cảnh của Ngũ Tử Tư đã động lòng và đem biếu thức ăn cho ông.

Sau khi Tử Tư dùng xong bữa ăn thì người quả phụ ấy nói với Nghũ Tử Tư: “Chồng tôi chết đã hơn 10 năm, từ ấy tôi thủ tiết thờ chồng, không nói chuyện hay giao du với bất người đàn ông nào khác. Nay vì thương cảm tài năng của ông tôi mới cho thức ăn, đã nói chuyện với ông, trong lúc đưa đồ ăn cho ông thì tay chân có đụng chạm, còn gì là trinh tiết của tôi nữa, tôi đành lấy cái chết để tạ lỗi với chồng"

Nói xong người quả phụ ôm hòn đá trầm mình xuống sông tự vẫn.



12.  Kê lặc
Kê lặc, chữ Hán giản thể: 鸡肋, phồn thể: 鷄肋. Bính âm: jī lèi(lē).

Xuất xứ

Quyển "Võ Đế Kỷ" trong phần "Ngụy Chí" trong "Tam Quốc Chí" do Bùi Tùng Chi chú thích[1] dẫn câu trong sách "Cửu Châu Xuân Thu của Tư Mã Bưu viết: "Khi Vương (chỉ Ngụy Võ Đế Tào Tháo) muốn rút về, mới ra lệnh rằng: 'Kê lặc'. Các quan không hiểu ý gì. Có quan chủ bộ là Dương Tu liền từ thu xếp hành trang. Mọi người kinh ngạc hỏi Tu, Tu đáp: "Kê lặc (gân gà), bỏ đi thì tiếc, ăn vào thì không ra gì, lấy nó để ví với đất Hán Trung, biết Vương đã muốn lui rồi'"(Nguyên văn: Phù kê lặc, khí chi như khả tích, thực chi vô sở đắc)
Hồi thứ 72 truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung[2] viết:
Tào Tháo đóng quân đã lâu, muốn tiến thì bị Mã Siêu chống cự hăng lắm, muốn thu quân về lại sợ quân Thục (quân Lưu Bị) coi thường: trong lòng còn do dự chưa biết nên quyết thế nào. Vừa lúc đó nhà bếp dâng món canh gà. Tháo thấy trong bát canh có miếng gân gà, nghĩ, lại thấy buồn rầu trong lòng. Đúng lúc đó, Hạ Hầu Đôn vào trướng, xin mật khẩu trong quân đêm nay, Tào Tháo buột miệng nói: “Kê lặc! Kê lặc” (gân gà, gân gà) Hạ Hầu Đôn truyền lệnh cho quân sĩ, mật khẩu đêm nay là “Kê lặc”. Quan chủ bạ hành quân làDương Tu nghe truyền hai chữ “Kê lặc” liền sai quân sĩ của mình sắp xếp đồ đạc, chuẩn bị rút quân. Có người báo cho Đôn biết, Đôn cả kinh, liền mời Tu tới trướng, hỏi: "Sao ngài lại thu xếp đồ đạc như vậy?" Tu đáp: "Qua mật khẩu đêm nay thì biết Ngụy Vương chắc sẽ thu binh sớm thôi. Kê lặc, ăn thì vô vị, bỏ đi thì tiếc. Ngay tiến binh thì không thắng nổi, lui về lại sợ người ta chê cười, ở đây mãi cũng vô ích, chi bằng sớm lui binh. Vài hôm nữa Ngụy Vương sẽ rút quân thôi. Vì thế tôi thu xếp đồ đạc trước, sợ tới lúc đó lại vội vàng."

Giải nghĩa

Kê lặc nghĩa là gân gà, dùng với những nghĩa sau:
1. Ví với chuyện làm một việc nào đó không có ý nghĩa, không có giá trị nhưng không làm thì tiếc.
2. Cũng dùng để ví với thân thể gày gò.

Thành ngữ Hán có liên quan

食鸡肋 (Thực kê lặc)
如嚼鸡肋 (Như tước kê lặc)
食之无味,弃之可惜 (Thực chi vô vị, khí chi khả tích)
杨修鸡肋 (Dương Tu kê lặc)
鸡肋功名 (Kê lặc công danh)

Tham khảo

1.Trung quốc sử tịch tinh hoa tùng dịch—Tam Quốc Chí, Tấn Thư, Nam Sử, Bắc Sử, Tùy Thư" Nhà xuất bản Thanh Đảo, Trung Quốc, 1993
2.Tam Quốc diễn nghĩa Bản chữ Hán giản thể, nhà xuất bản Văn học Nhân dân Bắc Kinh Trung Quốc, 1985

Chú dẫn nguồn

  1. ^ Trung quốc sử tịch tinh hòa tùng dịch -- Tam Quốc Chí, Tấn Thư, Nam Sử, Bắc Sử, Tùy Thư" Nhà xuất bản Thanh Đảo, Trung Quốc, 1993
  2. ^ Tam Quốc diễn nghĩa Bản chữ Hán giản thể, nhà xuất bản Văn học Nhân dân Bắc Kinh Trung Quốc, 1985)



1 nhận xét: