2. Tích con "quốc quốc"
3.Chức cẩm hồi văn [Điển hay tích lạ]
4. Tích "gương vỡ lại lành"
5. Bể dâu
Nguồn gốc của điển tích bể dâu bắt đầu từ chữ “Thương hải tang điền”. Thương hải hay còn phát âm là thanh hải: tức là biển xanh. Tang điền là ruộng trồng dâu nuôi tằm. Câu này có ý, một nơi từ biển xanh sâu thẳm hay biển sâu xanh thẳm đã biến thành ruộng trồng dâu, chỉ việc đời biến đổi nhanh chóng, đã khác hẳn so với ngày xưa.
Trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du có câu thơ nổi tiếng:
Trải qua một cuộc bể dâu.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
(st)
Trong “châu về Hợp Phố”, “châu” là từ vốn dùng để chỉ ngọc trai, về sau để chỉ ngọc nói chung, còn “Hợp Phố” vốn là tên của một quận xa xưa của Giao Châu. Đây là một nơi sản xuất châu nổi danh.
Tương truyền, ở thời Hậu Hán có tên quan thái thú tham lam, bạo tàn, thường bắt dân lấy ngọc châu rất ngặt. Vì thế mà châu đã bỏ quận nhà để sang quận Giao Chỉ. Cho đến khi Mạnh Thường đến thay chức Thái Thú, ra những đạo luật mới, bỏ những tệ cũ, cho dân chúng tự do kiếm châu, sản xuất châu, thì châu từ quận Giao Chỉ trở về quận Hợp Phố quê nhà. Từ tích này, người ta mới dùng câu “châu về Hợp Phố” để chỉ vật quý trở lại chốn cũ, hay nhận lại những vật quý đã mất.
(st)
7.Chuyện ba phải
Thuở xưa, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có ba đệ tử. Một hôm rảnh rỗi, ba ông ngồi với nhau tranh cãi thế nào là chân lý duy nhất. Ðương nhiên với bản lĩnh uyên thâm của từng ông, họ luôn bảo vệ lý luận của mình là chân lý, chả ông nào chịu ông nào. Cuối cùng, họ thống nhất đem kiến giải của bản thân trình Ðức Phật nhờ Ngài phân xử. Nghe đệ tử đầu trình bày xong, Ðức Phật nói là ông ta đúng. Tiếp đến người thứ hai Ðức Phật cũng nói ông này đúng. Người thứ ba cũng vậy;
.....
Ba người đệ tử không biết rằng ẩn dụ của chân lý duy nhất chính nằm ở chỗ đó. Đức Phật ngụ ý rằng chân lý duy nhất không nằm ở đâu cả. Cái gì cũng có thể là chân lý, mà cũng không có cái gì là chân lý.
Lâu dần nghĩa tích cực của từ ba phải chuyển thành tiêu cực. Những người nhu nhược, ai nói gì cũng thấy đúng, kô có chủ kiến riêng của mình.
(Dựa tích đã đọc trong Cơ hội của Chúa, kô biết có chính xác ko)
(st)
Thuở xưa, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có ba đệ tử. Một hôm rảnh rỗi, ba ông ngồi với nhau tranh cãi thế nào là chân lý duy nhất. Ðương nhiên với bản lĩnh uyên thâm của từng ông, họ luôn bảo vệ lý luận của mình là chân lý, chả ông nào chịu ông nào. Cuối cùng, họ thống nhất đem kiến giải của bản thân trình Ðức Phật nhờ Ngài phân xử. Nghe đệ tử đầu trình bày xong, Ðức Phật nói là ông ta đúng. Tiếp đến người thứ hai Ðức Phật cũng nói ông này đúng. Người thứ ba cũng vậy;
.....
Ba người đệ tử không biết rằng ẩn dụ của chân lý duy nhất chính nằm ở chỗ đó. Đức Phật ngụ ý rằng chân lý duy nhất không nằm ở đâu cả. Cái gì cũng có thể là chân lý, mà cũng không có cái gì là chân lý.
Lâu dần nghĩa tích cực của từ ba phải chuyển thành tiêu cực. Những người nhu nhược, ai nói gì cũng thấy đúng, kô có chủ kiến riêng của mình.
(Dựa tích đã đọc trong Cơ hội của Chúa, kô biết có chính xác ko)
(st)
8. Khánh Ly
Trịnh Công Sơn đã nói rằng ông đặt nghệ danh cho ca sĩ Lệ Mai là Khánh Ly bởi vì ông hâm mộ hai nhân vật trong lịch sử là Khánh Kỵ và Yêu Ly.
Như thế này:
Yêu Ly là thích khách người nước Ngô đời Xuân Thu. Công tử Quang giết vua Ngô rồi lên ngôi, tức là Hạp Lư. Con vua Ngô là công tử Khánh Kỵ (tên Liêu) trốn sang nước khác, chiêu nạp hào kiệt kết liên lân quốc tìm cơ hội báo thù. Hạp Lư nghe chuyện Khánh Kỵ, ăn không ngon ngủ chẳng yên, bèn lập kế dùng Yêu Ly giết Khánh Kỵ . Hạp Lư khép tội Yêu Ly rồi chặt mất cánh tay phải và giết hết vợ con Yêu Ly để Khánh Kỵ tin. Yêu Ly gặp Khánh Kỵ, được tin dùng . Tới lúc Khánh Kỵ cùng quân sĩ xuôi dòng sông về đánh Ngô, Yêu Ly ngồi chung thuyền đợi lúc gió mạnh cầm giáo đâm suốt bụng Khánh Kỵ. Khánh Kỵ xách ngược đầu Yêu Ly lên dìm xuống nước ba lần rồi lại để lên đầu gối, cúi nhìn, cười mà rằng “thiên hạ còn có dũng sĩ dám cả gan đâm ta!” Quân sĩ lúc đó xúm lại đòi giết Yêu Ly, nhưng Khánh Kỵ gạt đi mà bảo, “người này là một dũng sĩ! Chớ nên trong một ngày mà để chết hai dũng sĩ của thiên hạ. Đừng giết y, tha cho y về Ngô để cho y được tỏ lòng trung.”
Sau đó, Yêu Ly tự cho mình là kẻ bất nhân bất nghĩa bất trí, thẹn với Khánh Kỵ mà tự sát chết …
Hết chuyện …
(st)
Trịnh Công Sơn đã nói rằng ông đặt nghệ danh cho ca sĩ Lệ Mai là Khánh Ly bởi vì ông hâm mộ hai nhân vật trong lịch sử là Khánh Kỵ và Yêu Ly.
Như thế này:
Yêu Ly là thích khách người nước Ngô đời Xuân Thu. Công tử Quang giết vua Ngô rồi lên ngôi, tức là Hạp Lư. Con vua Ngô là công tử Khánh Kỵ (tên Liêu) trốn sang nước khác, chiêu nạp hào kiệt kết liên lân quốc tìm cơ hội báo thù. Hạp Lư nghe chuyện Khánh Kỵ, ăn không ngon ngủ chẳng yên, bèn lập kế dùng Yêu Ly giết Khánh Kỵ . Hạp Lư khép tội Yêu Ly rồi chặt mất cánh tay phải và giết hết vợ con Yêu Ly để Khánh Kỵ tin. Yêu Ly gặp Khánh Kỵ, được tin dùng . Tới lúc Khánh Kỵ cùng quân sĩ xuôi dòng sông về đánh Ngô, Yêu Ly ngồi chung thuyền đợi lúc gió mạnh cầm giáo đâm suốt bụng Khánh Kỵ. Khánh Kỵ xách ngược đầu Yêu Ly lên dìm xuống nước ba lần rồi lại để lên đầu gối, cúi nhìn, cười mà rằng “thiên hạ còn có dũng sĩ dám cả gan đâm ta!” Quân sĩ lúc đó xúm lại đòi giết Yêu Ly, nhưng Khánh Kỵ gạt đi mà bảo, “người này là một dũng sĩ! Chớ nên trong một ngày mà để chết hai dũng sĩ của thiên hạ. Đừng giết y, tha cho y về Ngô để cho y được tỏ lòng trung.”
Sau đó, Yêu Ly tự cho mình là kẻ bất nhân bất nghĩa bất trí, thẹn với Khánh Kỵ mà tự sát chết …
Hết chuyện …
(st)
9. Mâu thuẫn
Chuyện đời xưa, có một anh chàng nọ ra giữa chợ bán binh khí. Anh ta rao lớn lên rằng:
-Mua đi mua đi, đây là cây mâu sắc nhất thiên hạ đây, đâm cái gì cũng thủng.
Một lúc sau, anh ta lại rao:
-Mua đi mua đi, cái thuẫn (cái khiên) này vô cùng chắc chắn, không vật nào có thể đâm thủng.
Người qua đường thấy chuyện tức cười mới hỏi anh ta rằng:
-Thế nếu tôi lấy cái mâu của anh đâm vào cái thuẫn của anh thì sẽ thế nào, mâu gãy hay là thuẫn hư?
Anh chàng bán mâu há miệng mắc quai, kô thể trả lời đc. Từ đó người ta dùng tích mâu thuẫn để chỉ nhừng lời nói vô lý, đối nghịch nhau. Sau dùng rộng ra, mâu thuẫn còn chỉ cả xung khắc giữa mọi người…
(Ghi lại theo trí nhớ từ truyện cổ.)
(st)
Chuyện đời xưa, có một anh chàng nọ ra giữa chợ bán binh khí. Anh ta rao lớn lên rằng:
-Mua đi mua đi, đây là cây mâu sắc nhất thiên hạ đây, đâm cái gì cũng thủng.
Một lúc sau, anh ta lại rao:
-Mua đi mua đi, cái thuẫn (cái khiên) này vô cùng chắc chắn, không vật nào có thể đâm thủng.
Người qua đường thấy chuyện tức cười mới hỏi anh ta rằng:
-Thế nếu tôi lấy cái mâu của anh đâm vào cái thuẫn của anh thì sẽ thế nào, mâu gãy hay là thuẫn hư?
Anh chàng bán mâu há miệng mắc quai, kô thể trả lời đc. Từ đó người ta dùng tích mâu thuẫn để chỉ nhừng lời nói vô lý, đối nghịch nhau. Sau dùng rộng ra, mâu thuẫn còn chỉ cả xung khắc giữa mọi người…
(Ghi lại theo trí nhớ từ truyện cổ.)
(st)
10.Nụ Cười Đáng Giá Ngàn Vàng
Chu U Vương thời Đông Chu có nàng ái thiếp tên Bao Tự dung nhan xinh đẹp. U Vương si mê tới mức phế bỏ Thân Hậu lập Bao Tự làm Chánh Cung, nhưng Bao Tự vẫn luôn mang trong lòng nỗi ưu tư sầu thảm. U Vương tìm mọi cách để mua vui cho nàng. Nhà vua tìm mua hàng trăm tấm vải lụa về cho Bao Tự xé rách tạo ra tiếng kêu vui tai, nhưng vẫn không làm Bao Tự cười lên được. U Vương hứa ai làm cho Bao Tự cười sẽ được trọng thưởng ngàn vàng.
Quắc Công vốn là một tên a dua nịnh thần bèn hiến kế: Vốn nhà Chu có một chòi canh gác ở Lư Sơn, khi có giặc giã thì lên đài đốt cháy báo hiệu cho chư hầu tới cứu giá. U Vương nghe theo đốt lửa báo tin các chư hầu tưởng trong nước có biến lần lượt đem quân về cứu giá. Nhưng thấy U Vương vẫn bình an vô sự, các chư hầu mạnh ai kéo quân về. Bao Tự thấy cảnh chư hầu đổ xổ nhau tới rồi lúng ta lúng túng ra về, thì nàng cười thành tiếng. U Vương giữ đúng lời hứa trọng thưởng cho Quắc Công ngàn vàng.
Sau này khi Thân Hầu cùng Khuyển Nhung kéo binh vào kinh thành, U Vương lại lên Lư Sơn đốt lửa báo hiệu nhưng chẳng có ai tới.
(st)
Chu U Vương thời Đông Chu có nàng ái thiếp tên Bao Tự dung nhan xinh đẹp. U Vương si mê tới mức phế bỏ Thân Hậu lập Bao Tự làm Chánh Cung, nhưng Bao Tự vẫn luôn mang trong lòng nỗi ưu tư sầu thảm. U Vương tìm mọi cách để mua vui cho nàng. Nhà vua tìm mua hàng trăm tấm vải lụa về cho Bao Tự xé rách tạo ra tiếng kêu vui tai, nhưng vẫn không làm Bao Tự cười lên được. U Vương hứa ai làm cho Bao Tự cười sẽ được trọng thưởng ngàn vàng.
Quắc Công vốn là một tên a dua nịnh thần bèn hiến kế: Vốn nhà Chu có một chòi canh gác ở Lư Sơn, khi có giặc giã thì lên đài đốt cháy báo hiệu cho chư hầu tới cứu giá. U Vương nghe theo đốt lửa báo tin các chư hầu tưởng trong nước có biến lần lượt đem quân về cứu giá. Nhưng thấy U Vương vẫn bình an vô sự, các chư hầu mạnh ai kéo quân về. Bao Tự thấy cảnh chư hầu đổ xổ nhau tới rồi lúng ta lúng túng ra về, thì nàng cười thành tiếng. U Vương giữ đúng lời hứa trọng thưởng cho Quắc Công ngàn vàng.
Sau này khi Thân Hầu cùng Khuyển Nhung kéo binh vào kinh thành, U Vương lại lên Lư Sơn đốt lửa báo hiệu nhưng chẳng có ai tới.
(st)
11. Nam Nữ thọ thọ bất tương thân
Ngũ Viên (tự Tử Tư) vì oán hận Sở Bình Vương hoang dâm giết chết cha mình và anh là Ngũ Thượng, nên bỏ Sở ra đi tìm cách trả thù nhà.
Vua Sở biết Tử Tư là người có tài năng sợ rằng để ông sống sẽ di họa về nhau nên cho người truy sát.
Tư Tư phải nhiều lần cải trang mới tránh khỏi sự truy đuổi của quan quân nhà Sở. Sức cùng lực cạn, Ngũ Tư Tử không còn đồng xu dính túi, đói rét khổ sở. Một quả phụ đang đem thức ăn cho cha mẹ của mình ở ngoài ruộng thấy tình cảnh của Ngũ Tử Tư đã động lòng và đem biếu thức ăn cho ông.
Sau khi Tử Tư dùng xong bữa ăn thì người quả phụ ấy nói với Nghũ Tử Tư: “Chồng tôi chết đã hơn 10 năm, từ ấy tôi thủ tiết thờ chồng, không nói chuyện hay giao du với bất người đàn ông nào khác. Nay vì thương cảm tài năng của ông tôi mới cho thức ăn, đã nói chuyện với ông, trong lúc đưa đồ ăn cho ông thì tay chân có đụng chạm, còn gì là trinh tiết của tôi nữa, tôi đành lấy cái chết để tạ lỗi với chồng"
Nói xong người quả phụ ôm hòn đá trầm mình xuống sông tự vẫn.
Ngũ Viên (tự Tử Tư) vì oán hận Sở Bình Vương hoang dâm giết chết cha mình và anh là Ngũ Thượng, nên bỏ Sở ra đi tìm cách trả thù nhà.
Vua Sở biết Tử Tư là người có tài năng sợ rằng để ông sống sẽ di họa về nhau nên cho người truy sát.
Tư Tư phải nhiều lần cải trang mới tránh khỏi sự truy đuổi của quan quân nhà Sở. Sức cùng lực cạn, Ngũ Tư Tử không còn đồng xu dính túi, đói rét khổ sở. Một quả phụ đang đem thức ăn cho cha mẹ của mình ở ngoài ruộng thấy tình cảnh của Ngũ Tử Tư đã động lòng và đem biếu thức ăn cho ông.
Sau khi Tử Tư dùng xong bữa ăn thì người quả phụ ấy nói với Nghũ Tử Tư: “Chồng tôi chết đã hơn 10 năm, từ ấy tôi thủ tiết thờ chồng, không nói chuyện hay giao du với bất người đàn ông nào khác. Nay vì thương cảm tài năng của ông tôi mới cho thức ăn, đã nói chuyện với ông, trong lúc đưa đồ ăn cho ông thì tay chân có đụng chạm, còn gì là trinh tiết của tôi nữa, tôi đành lấy cái chết để tạ lỗi với chồng"
Nói xong người quả phụ ôm hòn đá trầm mình xuống sông tự vẫn.
12. Kê lặc
Xuất xứ
Quyển "Võ Đế Kỷ" trong phần "Ngụy Chí" trong "Tam Quốc Chí" do Bùi Tùng Chi chú thích[1] dẫn câu trong sách "Cửu Châu Xuân Thu của Tư Mã Bưu viết: "Khi Vương (chỉ Ngụy Võ Đế Tào Tháo) muốn rút về, mới ra lệnh rằng: 'Kê lặc'. Các quan không hiểu ý gì. Có quan chủ bộ là Dương Tu liền từ thu xếp hành trang. Mọi người kinh ngạc hỏi Tu, Tu đáp: "Kê lặc (gân gà), bỏ đi thì tiếc, ăn vào thì không ra gì, lấy nó để ví với đất Hán Trung, biết Vương đã muốn lui rồi'"(Nguyên văn: Phù kê lặc, khí chi như khả tích, thực chi vô sở đắc)
Hồi thứ 72 truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung[2] viết:
Tào Tháo đóng quân đã lâu, muốn tiến thì bị Mã Siêu chống cự hăng lắm, muốn thu quân về lại sợ quân Thục (quân Lưu Bị) coi thường: trong lòng còn do dự chưa biết nên quyết thế nào. Vừa lúc đó nhà bếp dâng món canh gà. Tháo thấy trong bát canh có miếng gân gà, nghĩ, lại thấy buồn rầu trong lòng. Đúng lúc đó, Hạ Hầu Đôn vào trướng, xin mật khẩu trong quân đêm nay, Tào Tháo buột miệng nói: “Kê lặc! Kê lặc” (gân gà, gân gà) Hạ Hầu Đôn truyền lệnh cho quân sĩ, mật khẩu đêm nay là “Kê lặc”. Quan chủ bạ hành quân làDương Tu nghe truyền hai chữ “Kê lặc” liền sai quân sĩ của mình sắp xếp đồ đạc, chuẩn bị rút quân. Có người báo cho Đôn biết, Đôn cả kinh, liền mời Tu tới trướng, hỏi: "Sao ngài lại thu xếp đồ đạc như vậy?" Tu đáp: "Qua mật khẩu đêm nay thì biết Ngụy Vương chắc sẽ thu binh sớm thôi. Kê lặc, ăn thì vô vị, bỏ đi thì tiếc. Ngay tiến binh thì không thắng nổi, lui về lại sợ người ta chê cười, ở đây mãi cũng vô ích, chi bằng sớm lui binh. Vài hôm nữa Ngụy Vương sẽ rút quân thôi. Vì thế tôi thu xếp đồ đạc trước, sợ tới lúc đó lại vội vàng."
Giải nghĩa
Kê lặc nghĩa là gân gà, dùng với những nghĩa sau:
1. Ví với chuyện làm một việc nào đó không có ý nghĩa, không có giá trị nhưng không làm thì tiếc.
2. Cũng dùng để ví với thân thể gày gò.
Thành ngữ Hán có liên quan
食鸡肋 (Thực kê lặc)
如嚼鸡肋 (Như tước kê lặc)
食之无味,弃之可惜 (Thực chi vô vị, khí chi khả tích)
杨修鸡肋 (Dương Tu kê lặc)
鸡肋功名 (Kê lặc công danh)
Tham khảo
1.Trung quốc sử tịch tinh hoa tùng dịch—Tam Quốc Chí, Tấn Thư, Nam Sử, Bắc Sử, Tùy Thư" Nhà xuất bản Thanh Đảo, Trung Quốc, 1993
2.Tam Quốc diễn nghĩa Bản chữ Hán giản thể, nhà xuất bản Văn học Nhân dân Bắc Kinh Trung Quốc, 1985
Thật hay. Tư liệu đáng nghiên cứu.
Trả lờiXóa